Chia sẻ của Nguyễn Siêu- cựu học sinh học Thực nghiệm, cực du học sinh tại Mỹ, hiện đang làm việc tại Paramount Network dưới vị trí Junior Associate Producer-Editor:
Ngày xưa tôi học trường tiểu học Thực nghiệm (Ba Đình, Hà Nội). Chương trình tôi được giảng dạy trong suốt 5 năm 2001-2005 chính là chương trình Công nghệ giáo dục của thầy Hồ Ngọc Đại hiện đang gây nhiều tranh cãi. Sau bài viết hôm trước giải thích tại sao chúng tôi lại học ngôn ngữ từ những hình tròn, hình vuông, tôi nhận được nhiều tin nhắn hỏi rằng ngoài những khối tròn vuông ấy thì chúng tôi còn được học gì ở trường Thực nghiệm nữa. Để đưa ra một bức tranh toàn cảnh hơn về chương trình giáo dục mà mọi người đang cho là “khác biệt” này, tôi muốn chia sẻ tất tần tật những điều dưới đây về 5 năm đi học có lẽ là vui nhất, hạnh phúc nhất, hiếu kỳ nhất của mình.
Ở trường Thực nghiệm, chúng tôi luôn tự hiểu rõ bộ sách giáo khoa mình học có rất nhiều điểm khác biệt so với các bạn trường khác. Tôi vẫn luôn thấy tự hào về điều này, mặc dù trong con mắt của nhiều người sự khác biệt là một điều mạo hiểm. Thấm thoắt 17 năm đã trôi qua từ ngày tôi bắt đầu cắp sách tới trường, nên những chia sẻ dưới đây chỉ là những mảnh ghép vụn vặt của ký ức mà tôi cố gắng lục lọi mấy ngày qua, có lẽ cũng chưa thể đầy đủ để lột tả hết một công trình giáo dục đồ sộ. Bên cạnh đó, tôi cũng chưa một lần được học theo bộ sách đại trà của các bạn ở trường khác, nên nếu có những điểm trùng lặp, giống nhau, không đáng mang ra so sánh, mong mọi người thông cảm. Điều số 1 tới số 7 ở dưới đây nói về chương trình tiếng Việt. Từ điều số 8, tôi viết về chương trình Toán, Tiếng Anh, một số môn khác, cũng như việc trường không chấm điểm, không xếp loại, cho các bạn quan tâm.
1. TÔI ĐÃ THI VÀO LỚP 1 TRƯỜNG THỰC NGHIỆM THẾ NÀO?
Ngày ấy, tôi không đơn giản chỉ nộp hồ sơ rồi nghiễm nhiên trở thành một học sinh Thực nghiệm. Tôi phải đăng ký dự thi cùng rất nhiều bạn khác. Bài thi không kiểm tra vốn hiểu biết, mà kiểm tra phản xạ và lối suy nghĩ logic. Chúng tôi được phát cho những mẩu giấy hình tròn, hình vuông, hình tam giác. Cô giáo sẽ đọc một bài thơ, cứ khi nghe thấy một từ nào đó được yêu cầu trước (ví dụ như khi nghe thấy từ “cò” trong một bài ca dao cô đọc), thì sẽ đặt một hình tam giác xuống bàn. Hoặc như trong bài thi của tôi, cô giáo đọc một truyện ngắn và sau đó hỏi lại là con gấu trong truyện “gừ” mấy tiếng. Đó một trong những bài thi đầu đời tôi phải vượt qua để có một suất trong ngôi trường này.
2. CHÚNG TÔI HỌC KHỐI VUÔNG, KHỐI TRÒN, VÌ TRONG TỰ NHIÊN CON NGƯỜI PHÁT ÂM TRƯỚC KHI BIẾT VIẾT CHỮ
Trong bài viết trước, tôi đã giải thích tại sao học sinh lớp 1 ở trường Thực nghiệm lại chỉ từng hình vuông, hình tròn, rồi đọc vanh vách một câu thơ. Nếu sách giáo khoa đại trà dạy chữ viết trước (và bắt đầu bằng chữ “e”), thì trường Thực nghiệm dạy về âm trước, do thuận theo tự nhiên thì chúng ta biết nói trước khi biết viết. Ký hiệu mỗi “tiếng,” tức đơn vị ngữ âm hoàn chỉnh được phát ra, bằng hình tròn, hình vuông là để chúng tôi nhận biết nếu mắt nhìn thấy 8 tiếng, thì miệng cũng phải phát ra 8 tiếng, 8 âm thanh. Hình khối cũng chỉ là “vật thay thế” cho “vật thật,” tức âm thanh, một triết luận cơ bản của ngôn ngữ và truyền thông.
Đây chỉ là những bài học đầu, trước khi học sinh Thực nghiệm bắt đầu học cụ thể về mặt chữ, rồi mới học về nghĩa. Khi học về âm, điều quan trọng là làm thế nào để học sinh “quên” đi nghĩa, khiến chúng tập trung 100% vào cách phát âm, rồi sau khi nắm chắc kiến thức ngữ âm thì mới học tiếp các khía cạnh khác của ngôn ngữ. Đó chính là phương pháp căn bản của khoa học giáo dục mà có lẽ nhiều người không hiểu. Khi đã bạn biết tới tận ngọn ngành của một thứ gì đó và bạn muốn truyền đạt điều này cho ai đó, bạn luôn muốn truyền đạt tất cả mọi thứ một lúc, giải thích thật cặn kẽ để họ có thể hiểu được một vấn đề từ A tới Z. Tuy nhiên, học sinh tiểu học không suy nghĩ như vậy. Muốn giảng dạy một vấn đề phức tạp như ngôn ngữ, phải đi thật chậm, thật dần dần, phải dạy riêng rẽ từng thứ một. Đây là tại sao “giáo dục” là một ngành, chứ không phải ai muốn “dạy” là cũng “dạy” được. “Giáo dục” cần phương pháp. Một ví dụ là tôi học Hoá cấp 2, có những hợp chất với sắt (tại sao có cả FeS lẫn FeS2) tôi thấy được viết không giống quy tắc được học khi cân bằng phương trình hoá học, nhưng lúc ấy cô giáo bảo cứ biết là như vậy, tới cấp 3 mới bắt đầu học về hoá trị với số oxi hoá, lúc ấy mới hiểu lý do đằng sau những cái “bất quy tắc” kia. Có những cái phải để từ từ, theo thời gian rồi dần dần học sẽ hiểu, không thể một dạy một lúc được luôn. Trong trường hợp này cũng vậy, để tập trung vào “âm,” học sinh cần quên phần “nghĩa” tạm thời. Những hình vuông, hình tròn sinh ra để thay thế cũng một phần vì mục đích này
3. KHỐI VUÔNG, KHỐI TRÒN TRỞ NÊN HỮU ÍCH CHO VIỆC TÁCH VẦN
Từ việc sử dụng hình khối để “đại diện” cho “tiếng”, chúng tôi bắt đầu “đặt” tiếng vào hình khối để phân tách chúng ra. Chúng tôi đặt tiếng “ba” vào một hình chữ nhật, kẻ hai vạch thẳng song song để tách âm “b” và âm “a” ra (nhìn hình minh hoạ bên dưới). Từ đây, chúng tôi được học là một “tiếng” có thể có hai phần, là “phần đầu” và “phần vần.” Tiếp theo, trong “phần vần”, chúng tôi tiếp tục kẻ hai vạch thẳng để tách thành 3 phần: “âm đệm,” “âm chính” và “âm cuối.” Ví dụ như từ “LOAN” (tên mẹ tôi), “L” là phần đầu, “O” là âm đệm, “A” là âm chính, “N” là âm cuối. Chúng tôi được học là trong 4 phần trên, một tiếng có thể mất âm đầu, âm đệm và âm cuối, nhưng luôn có âm chính, không thể thiếu được. Dấu thanh cũng được đặt lên phía trên của mô hình chữ nhật này để thay đổi cách phát âm.
Đây là một cách học phát âm giàu tư duy hình ảnh, và chính vì nó mà tôi phát âm tiếng Việt rất nhanh. Mỗi khi nhìn vào một “tiếng,” tôi đầu hình dung trong đầu mô hình này và có thể phát âm được ngay lập tức. Bên cạnh đó, tôi cũng muốn chia sẻ về phương diện cá nhân rằng nhờ cách học này mà tới hiện nay tôi tư duy hầu hết mọi thứ đều bằng hình ảnh. Tôi ghi nhớ một kỷ niệm bằng hình ảnh. Tôi phân tích truyền thông bằng hình ảnh. Tôi thậm chí cũng dùng một ấn tượng hình ảnh để ghi nhớ âm thanh. Tôi không biết lối tư duy hình ảnh này có vượt trội hơn những lối tư duy khác hay không, nhưng nó khiến cá nhân tôi đánh giá một sự vật, sự việc nhanh nhẹn hơn, cuộc sống cũng dễ dàng hơn nhiều phần.
4. ĐÁNH VẦN “IÊ” LÀ “IA” LÀ THEO ÂM CHỨ KHÔNG PHẢI THEO CHỮ
Ngoài hình vuông, hình tròn, một trong những điều mọi người tranh cãi là tại sao lại đánh vần “iê” là “ia” mà không phải là “i-ê” Theo như tôi đã viết ở trên, triết lý Công nghệ giáo dục là dạy âm thanh trước, chữ viết theo sau và phục vụ cho âm thanh. Đánh vần vì thế dựa vào âm thanh chứ không phải dựa vào cách viết. “Iê” không phải là hai nguyên âm, mà là một nguyên âm ĐÔI, vì chúng ta không bao giờ để chúng đứng một mình không có âm cuối. Ví dụ như chúng ta viết “Sia” chứ không bao giờ viết “Siê” và để viết “Siê” thì phải có một âm cuối, ví dụ như “Siêu” thì nó mới tồn tại. Vì thế, “iê” chỉ là một THỂ DẠNG khác của nguyên âm “ia” chứ không phải một thực thể của riêng nó. Cách đánh vần “iê” vì thế cũng là “ia,” chứ không phải là “i-ê.” Trong mô hình chữ nhật mô tả “tiếng” ở bên trên, “iê” cũng được viết CÙNG NHAU trong ô “âm chính,” chứ không phải viết “i” ở âm đệm và “ê” ở âm chính, vì chúng đi liền nhau trong một “nguyên âm đôi.” Nguyên âm đôi cũng là một trong những điều chúng tôi học cuối cùng, và cũng là khó nhất, trong phần ngữ âm này, nhưng chúng thực sự không hề khó một khi bạn hiểu bản chất vấn đề. Người lớn có thể thấy khó hiểu vì họ quen khái niệm “đánh vần” tức là “đọc” lại chữ viết, tức là chữ có trước, âm thanh có sau. Công nghệ giáo dục quan niệm ngược lại. “Đánh vần” là đọc bật lên một âm thanh, độc lập khỏi con chữ, vì âm thanh có trước, chữ chỉ để ghi lại âm thanh mà thôi.
5. “GÀ QUÉ,” “ĐI BỂ,” “QUẢ MUỖM” DẠY CÁCH TRÂN TRỌNG SỰ KHÁC BIỆT TRONG MỖI ĐỊA PHƯƠNG.
Nhiều người tự hỏi, tại sao lại dạy trẻ em những từ mà nó còn không biết nghĩa là gì. Ví dụ, “bể” là từ địa phương, tại sao lại dạy trẻ một phương ngữ không quen thuộc? Thứ nhất, như đã nói ở trên, chương trình này dạy cách phát âm đầu tiên, và trong quá trình học âm, chúng ta chưa quan trọng ngữ nghĩa. Thứ hai, những người chỉ trích điều này có lẽ quên mất, đi học là để tiếp thu những điều mới, chứ không phải chỉ làm quen với những thứ quen thuộc. Tôi nhớ hồi học tới từ “bể”, tôi cũng thắc mắc hỏi cô, thì được giải thích “bể” là một từ đồng nghĩa với “biển”, có những địa phương khác dùng. Một giây sau, tôi hiểu ngay, thích thú, chứ không õng ẹo không chịu học như một vài câu chuyện trên mạng. Đây là kiến thức mới, mình đến trường để học cái mới, chứ tại sao lại đòi chỉ học những cái quen thuộc? Nhờ học được từ “bể” mà tôi mới à ra, tại sao người ta lại gọi là “nem cua bể.” Nó dạy cho tôi hai điều: một là cách liên kết giữa những từ đồng nghĩa với nhau, để biết nhiều hơn, tăng vốn từ cho mình, và hai là biết rằng Việt Nam có rất nhiều địa phương khác nhau, nhiều tỉnh thành khác nhau, nhiều phương ngữ khác nhau, từ đó hiểu thêm rằng không phải ai cũng nói giống mình, dùng từ giống mình, biết cách trân trọng sự KHÁC BIỆT.
6. CÂU CHUYỆN “BÉ XÁCH ĐỠ MẸ” DẠY TƯ DUY PHẢN BIỆN
Tôi cũng từng được học câu chuyện “Bé xách đỡ mẹ”, hiện đang bị nhiều người phê phán là vô giáo dục, dạy cho trẻ em thói hư tật xấu. Tôi có thể chia sẻ trong trải nghiệm của tôi, là tôi đã từng đọc câu chuyện này ở trường Thực nghiệm, và tới ngày hôm nay vẫn chưa một lần vô ơn với ai. Hồi đó, khi đọc câu chuyện này, tôi chỉ cười. Tôi cười vì tôi hiểu thằng bé ranh ma, láu cá. Tôi cười vì tôi biết đây chỉ là một câu chuyện cười thâm thuý mà thôi. Ở 6 tuổi, tôi nghĩ một đứa trẻ con đã hiểu đủ để biết đây không phải là cách cư xử nhà trường đang khuyến khích. Ở 6 tuổi, một đứa trẻ con đã đủ thông minh để biết đây chỉ là một truyện cười. Trong trường Thực nghiệm, chúng tôi chưa bao giờ được các cô bắt đọc một câu chuyện và yêu cầu, “Hãy làm đúng y hệt những gì người ta làm”. Không, những bài đọc trong sách Thực nghiệm không mang tính chất giáo lý, mục đích không phải để khiến trẻ công nhận là ĐÚNG và học theo. Những bài đọc này khuyến khích trẻ tự hỏi bản thân mình, cái gì ở đây hay, cái gì không hay, cái gì buồn cười, tại sao lại buồn cười. Đây là mấu chốt của TƯ DUY PHẢN BIỆN. Ở Thực nghiệm, chúng tôi đã được học tư duy phản biện từ rất sớm như thế. Chúng tôi không học theo kiểu cái gì nhà trường giảng thì mình tự coi là đúng. Chúng tôi học cách tự đưa ra đánh giá, nhận xét của mình.
7. CHÚNG TÔI ĐƯỢC HỌC LÀM THƠ NĂM LỚP HAI, HỌC TRUYỆN KIỀU NĂM LỚP BỐN, VĂN HỌC NGA NĂM LỚP NĂM
Lên lớp hai, Công nghệ giáo dục tiếp tục trọng tâm vào dạy âm thanh. Chúng tôi được học thanh bằng và thanh trắc sớm hơn nhiều chương trình khác. Chúng tôi được học về cách gieo vần trong thơ. Có hai cách chúng tôi làm quen ở thời điểm này là vần chân và vần lưng. Vần chân là vần cuối câu, ví dụ như “Hạt gạo làng TA/Có vị phù SA”. Vần lưng là vần giữa câu, ví dụ như “Tôi lại về quê mẹ nuôi XƯA/Một buổi TRƯA nắng dài bãi cát.” Một lần nữa, cách gọi “vần CHÂN” và “vần LƯNG” tiếp tục giúp tư duy hình ảnh của chúng tôi được phong phú hơn (nhìn dáng thơ như một dáng người). Chúng tôi hồi ấy rất thích được ngồi làm thơ trong lớp. Cô đọc một câu thơ 4 chữ, chúng tôi sẽ gieo vần chân hoặc vần lưng để viết nên hẳn một bài thơ. Những bài học này giúp tôi cảm nhịp, cảm vần khá tốt.
Lên lớp 4, chúng tôi được học Truyện Kiều, một điều có lẽ không có trong đại đa số chương trình khác. Một trong các đoạn trích được học là “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, nên khi học lại ở chương trình lớp 8 tôi không còn bỡ ngỡ chút nào. Chúng tôi bên cạnh đó cũng được đọc rất nhiều tác phẩm nước ngoài, từ Chekov tới Leo Tolstoy. Tôi vẫn nhớ như in câu chuyện “Vanka” về cậu bé nghèo khổ, bất hạnh của nhà văn Chekov, khi đọc tôi khóc rất nhiều. Tôi tưởng tượng ra cuộc sống éo le của một đứa bé phải mưu sinh trong khu ổ chuột trên ở Nga xa xôi. Đọc những tác phẩm này từ khi còn rất sớm, chúng tôi được học cách CẢM THÔNG. Cảm thông với số phận của cô Kiều. Cảm thông với Vanka bất hạnh. Học Tiếng Việt, nhưng không chỉ học về ngôn ngữ, mà còn học về cảm xúc, về cách đối nhân xử thế, cách nhìn thế giới to rộng ngoài kia. Có mỗi câu chuyện “Bé xách đỡ mẹ” mà ai cũng nhao nhao lên chửi, trong khi những tác phẩm trưởng thành, những bài học làm người trong cùng một chương trình thì người ta không đoái hoài tìm hiểu quan tâm.
Để học về sự cảm thông, khả năng thấu cảm con người, chúng tôi cũng thường xuyên có bài tập phải kể lại một câu chuyện dựa trên con mắt của một nhân vật. Tôi vẫn muốn viết một chút về điểm này dù nhiều bạn ở trường khác cũng được dạy làm văn tương tự. Chúng tôi không kể lại truyện “Cây tre trăm đốt” theo lời anh nông dân hay theo lời ông Bụt, mà phải hoá thân thành phú ông. Chúng tôi phải đóng vai ác! Nhưng khi đóng vai ác, chúng tôi không thể viết, “Tôi là phú ông và tôi ác”. Chúng tôi phải thật sự đặt mình vào tâm lý của nhân vật để hiểu, vì sao phú ông làm thế, với tư cách là một con người. Tại sao người ta làm việc ác? Từ những bài văn này, chúng tôi học được một điều là mặc dù truyện cổ tích luôn rõ ràng “thiện” - “ác”, nhưng trong thực tế, chẳng ai hoàn toàn “thiện” mà cũng chẳng ai hoàn toàn “ác.” Ai cũng có những lý do của mình để thực hiện một điều gì đó. Tâm lý con người là rất phong phú, nên trước khi tìm hiểu, kết luận về ai đó, hãy đặt mình vào vị trí của họ. Tư duy phản biện, một lần nữa, lại được chú trọng trong cách giảng dạy này.
8. CHÚNG TÔI HỌC TOÁN TỪ HỆ NHỊ PHÂN TRƯỚC, RỒI MỚI TỚI HỆ THẬP PHÂN
Hồi ấy khi học Toán về, bố tôi rất ngạc nhiên vì tại sao tôi lại đếm các số liên tiếp là “0, 1, 10, 11, 100, 101, 110″. Hoá ra là chúng tôi được học hệ đếm nhị phân trước khi học hệ đếm thập phân. Bắt đầu từ những nấc thang nhỏ, những thứ đơn giản nhất, chúng tôi học một hệ đếm chỉ có hai số 0 và 1. Sau đó, mở rộng ra là hệ 3, tức là chỉ có 3 số 0, 1, 2. Dần dần, chúng tôi mới học lên hệ 10, tức là hệ số thập phân gồm các chữ số từ 0 tới 9. Học hệ nhị phân trước cho tôi một tư duy số rất khác, rất logic, tức là nếu có một điều luật, và luật quy định chỉ có hai số 0 và 1, thì mình chỉ được tập trung vào hai số này, quây giới hạn không cho những chữ số khác được xuất hiện. Chính nhờ điều này mà sau này, khi học Tin học, tôi nắm vững khái niệm hệ nhị phân khá nhanh.
9. CHÚNG TÔI ĐƯỢC HỌC TẬP HỢP TỪ NĂM LỚP 1, TRONG KHI CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI TRÀ CHỈ DẠY TẬP HỢP VÀO LỚP 6
Ngày ấy, khi tôi nói về khái niệm “tập hợp” với các bạn ở trường khác, không một ai hiểu tôi đang nói về điều gì. Hoá ra, ở trường Thực nghiệm, chúng tôi đã được học khái niệm này sớm hơn chương trình đại trà. Từ những ngày đầu đi học, chúng tôi đã được học vẽ sơ đồ Venn, học phép hợp, phép giao, phép hiệu. Chúng tôi học cái gì được có mặt trong một tập hợp, cái gì bị bỏ ra ngoài, cái gì là của chung, cái gì là của riêng. Học về tập hợp là một cách để chúng tôi có thể quan niệm hoá thế giới xung quanh: ai thuộc lớp 1A, ai không thuộc lớp 1A, ai học trường Thực nghiệm, ai không học trường Thực nghiệm. Nhờ khái niệm tập hợp, chúng tôi cũng tự xây dựng được những khái niệm “giống nhau”, “khác nhau”,và học cách trân trọng sự khác biệt. Không phải cái gì cũng phải nằm trong một tập hợp nào đó. Mỗi phần tử của tập hợp nhỏ không hề kém quan trọng hơn các phần tử của tập hợp to. Tư duy khác biệt bắt đầu từ những cái nhỏ như vậy. Học về tập hợp cũng khiến môn Toán trở nên bớt khô khan, vì con số chỉ là con số, còn sơ đồ Venn là hình vẽ, mà với trẻ con 6 tuổi như chúng tôi thì thấy hình vẽ tất nhiên sẽ hứng thú học hơn. Điều này cũng giải thích cho phương pháp học phát âm “tiếng” nêu trên.
10. CHÚNG TÔI HỌC TIẾNG ANH SONG SONG VỚI TIẾNG VIỆT TỪ LỚP 1
Ngày tôi học tiểu học, nhiều trường khác bắt đầu dạy tiếng Anh từ năm lớp 3, thậm chí không dạy mà phải để học sinh bắt đầu học ở cấp THCS. Trường Thực nghiệm thì khác. Chúng tôi bắt đầu tiếng Anh từ học kỳ 2 của lớp 1, cũng theo chương trình riêng của trung tâm Công nghệ giáo dục. Tôi còn nhớ mình hứng thú học tiếng Anh lắm. Được học hai ngôn ngữ song song một lúc là một trong những điều tôi cảm thấy biết ơn nhất, vì nó dường như đã định hình cả chặng đường phát triển ngôn ngữ của tôi. Điều này chính bố mẹ tôi cũng rất nhiều lần công nhận. Tôi vừa được tư duy theo tiếng Việt, vừa tư duy theo tiếng Anh, mà ở lứa tuổi tò mò và hiếu kỳ ấy thì não mình sẽ mở cửa chào đón mọi thứ mới lạ để tiếp thu, thoả mãn lòng hiếu học. Tôi có khởi đầu ở môn tiếng Anh như thế, mà chính xuất phát sớm ấy đã giúp tôi nắm chắc tiếng Anh để tiếp tục học giỏi bộ môn này ở cấp 2 và đỗ vào lớp chuyên Anh Ams cấp 3. Bên cạnh học cách nói, chúng tôi cũng được dạy tập viết từng chữ cái đặc biệt trong tiếng Anh, ví dụ như f hay z. Điều thú vị là khi các bạn ở các trường khác được dạy viết chữ f có cái đuôi nửa dưới ngoặt ra phía bên trái, thì chúng tôi lại làm tròn cong nó lên ở phía bên phải, rồi thắt nơ ở trên. Sau này, khi sang nước ngoài, tôi thấy ai cũng viết chữ f như mình được học ở Thực nghiệm, còn chữ f như nhiều trường khác dạy thì chỉ thấy người Việt viết là nhiều. Chữ z chúng tôi cũng được dạy viết giống giống lặng đen trong âm nhạc, chứ không phải 3 nét ziczac như ký tự in. Các cô giáo ở trường Thực nghiệm rèn chữ rất tốt. Cách viết hoa, viết thường đều được trau chuốt, và chính vì thế mà nhiều người vẫn khen chữ tôi rất đẹp (cái này tôi tự hào thật sự). Đấy là do tôi được giáo dục cách chú ý tới từng chi tiết, từng đường kẻ, từng nét cong, cẩn thận hơn vội vàng. Cách giáo dục này để lại ấn tượng trong tôi tới mức nó đã trở thành triết lý sống của tôi và giúp tôi rất nhiều ở thời điểm hiện tại: chú trọng mọi thứ tới từng chi tiết, không chỉ nhìn bức tranh toàn cảnh không thôi.
11. MỘT VÀI BỘ MÔN VÀ KỶ NIỆM KHÁC
Ở trường Thực nghiệm, hồi lớp 3, tôi còn nhớ có môn Kỹ thuật, chúng tôi được học cách sử dụng kim chỉ. Nhờ kỹ năng này, nhiều người vẫn ngạc nhiên hỏi, “Tại sao con trai mà biết may vá thêu thùa thế này.” Lên lớp 4, lớp 5, chúng tôi cũng được học đan lát. Tất cả những kỹ năng này sau này đều khá có ích trong cuộc sống. Không phải vì tôi suốt ngày đan lát, thêu thùa, mà vì tôi học được nhiều điều về hình khối, về tính chính xác trong từng hành động, về sự khéo tay. Trong lớp Âm nhạc, tôi còn nhớ được khuyến khích tự viết lời hát, cũng là một bài học sáng tạo khác trong trải nghiệm Thực nghiệm của tôi. Chúng tôi không có môn “Đạo đức” như nhiều trường, mà thay vào đó là “Giáo dục lối sống”. Tôi có đọc qua sách Đạo đức trong chương trình đại trà, có những bài học hết sức sáo rỗng như “Trời tối, ai dũng cảm, ai sợ tối.” Tại sao lại giáo dục trẻ em là đi một mình giữa trời tối thì được tung hô là dũng cảm? Ai sẽ dạy trẻ em cách bảo vệ mình, cách đưa ra những quyết định khôn khéo hơn? Trong lớp “Giáo dục lối sống” ở trường Thực nghiệm, chúng tôi học những điều sát với cuộc sống hơn: lễ phép với cha mẹ, ông bà như thế nào, trước khi ăn mời cơm ra sao, trong cuộc sống thế nào là công bằng, v…v…
12. TRƯỜNG THỰC NGHIỆM CHỈ CHẤM ĐIỂM A, B, C, D VÀ KHÔNG XẾP HẠNG
Một trong những khác biệt lớn nhất ở trường Thực nghiệm là thầy cô chỉ chấm điểm cho chúng tôi bằng chữ, tức A, B, C, D, chứ không chi li ra từng số. Điều này giúp chúng tôi biết tự đánh giá sức học của mình, nhưng cũng không quá áp lực về điểm số. Tôi thấy đây là cách giáo dục hay hơn cách chấm điểm bằng số, vì rõ ràng bệnh thành tích là một trong những căn bệnh nặng nhất của giáo dục Việt Nam, và áp lực điểm số khiến học sinh Việt luôn luôn cảm thấy buồn chán, nặng nề, ghét đi học. Để đấu tranh với bệnh thành tích, chúng tôi cũng không xếp hạng học sinh trong lớp như nhiều trường khác. Mỗi học sinh tự cố gắng vượt lên trên bản thân mình là đủ, thay vì so sánh mình với người này, người kia. Đây là một điều rất nhân văn mà tôi trân trọng ở môi trường giáo dục Thực nghiệm. Kể cả trong ngày Trung thu, mỗi lớp chúng tôi đều bày một mâm cỗ, nhà trường sẽ không trao thưởng là “Mâm cỗ đẹp nhất” thuộc về lớp nào, mà trao thưởng theo kiểu mâm cỗ của lớp này là “Mâm cỗ màu sắc nhất,” của lớp kia là “Mâm cỗ có cảm hứng Hà Nội đậm đà nhất”. Trường Thực nghiệm khiến học sinh chúng tôi chương bao giờ phải ganh đua nhau, phải tị nạnh nhau, phải cạnh tranh nhau. Mẹ tôi từng thắc mắc, “Nếu con không cạnh tranh với các bạn thì lấy động lực gì để học”. Tôi chỉ trả lời, “Vì mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
“Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”, cùng với “Đi học là hạnh phúc” là hai phương châm duy nhất của trường Thực nghiệm. Chúng tôi không có “Tiên học lễ, hậu học văn”. Chúng tôi không có “Học, học nữa, học mãi”, và một lần khi tôi hỏi tại sao lại không treo khẩu hiệu này thì cô giáo bảo rằng học sinh tiểu học sẽ không hiểu ý nghĩa sâu xa của nó, mà cứ nghĩ mình phải học suốt ngày, không được nghỉ ngơi, tức là một cách học không khoa học, trường Thực nghiệm không khuyến khích. Trường Thực nghiệm có thể khác biệt, nhưng chính vì những khác biệt ấy mà hồi đó tôi thích đi học hơn ở nhà. Đến trường, tôi được làm thơ. Đến trường, tôi được đọc Kiều. Đến trường, tôi được vẽ tập hợp. Đến trường, tôi được nói tiếng Anh. Đến trường, tôi không phải tập khai giảng mấy ngày liên tục dưới nắng. Đến trường, tôi không phải cạnh tranh với bạn bè vì điểm số. Đến trường, tôi không cảm thấy gì khác ngoài yêu thương cho thầy cô, bè bạn. Đến trường, tôi được phát triển kỹ năng tư duy của chính mình và xây dựng chính kiến của riêng mình.
Tôi hiểu các bạn “ném đá” chương trình Công nghệ giáo dục vì sao. Sự tin tưởng của chúng ta với giáo dục nước nhà chưa bao giờ thấp tới như vậy, nên một khi có một sự thay đổi dù là nhỏ, chúng ta ngay lập tức nhạy cảm, lo lắng. Bình thường, người ta bảo tôi hay viết bài chửi người khác đanh đá, nhưng trong trường hợp này, tôi không chửi ai, vì tôi hiểu tại sao các bạn tức giận. Cái gì “mới” cũng mạo hiểm, và “cũ” thì vẫn an toàn hơn. Nhiều bạn còn nhầm công trình của GS Hồ Ngọc Đại với GS Bùi Hiền, đánh đồng hai hướng “cải cách” là một, đây là một sự sai lầm nghiêm trọng. Nếu các bạn được học cách tách tiếng trong mô hình chữ nhật thành hai phần riêng biệt như tôi từng học, thì các bạn sẽ dễ dàng sử dụng tư duy thành phần riêng rẽ để biết được đây là hai vị giáo sư, hai đề xuất giáo dục khác nhau. Nếu các bạn được học về sự thấu cảm với người khác từ những năm tiểu học, có lẽ các bạn sẽ hiểu tâm huyết của thầy Hồ Ngọc Đại đổ vào chương trình này nhiều thế nào và tìm hiểu trước khi chỉ trích. Nếu các bạn được học cách trân trọng sự khác biệt như cách Thực nghiệm dạy tôi, các bạn sẽ hiểu một điều mà đã trở thành phương châm sống của tôi cho tới ngày hôm nay:
Cái mới là mạo hiểm, nhưng mạo hiểm mới mang tới những điều vĩ đại”