Dưới đây là một phần trích đoạn cuốn hồi ký “The Moment Of Lift: How Empowering Women Changes The World” đang gây chú ý của bà Melinda, do báo Daily Mail cho đăng tải:
Quyết định khó khăn
Năm 1995, sau khi Bill và tôi cưới nhau được gần 2 năm và chuẩn bị có chuyến đi tới Trung Quốc, tôi phát hiện mình đã dính bầu.
Đám cưới của Bill và Melinda Gates vào ngày 1/1/1994.
Chuyến đi Trung Quốc này có nghĩa to lớn đối với chúng tôi. Bill hiếm khi dứt khỏi công việc ở Microsoft và lần này chúng tôi cũng sẽ đi cùng các cặp đôi khác.
Tôi không muốn làm chộn rộn chuyến đi nên cân nhắc không nói với Bill việc mình đã có thai cho tới khi chúng tôi trở về. Suốt một ngày rưỡi, tôi nghĩ mình sẽ giữ kín tin này. Sau đó, tôi nhận ra rằng: “Không, mình sẽ phải nói với anh ấy vì nhỡ có điều gì không hay xảy ra thì sao? Và cơ bản hơn, mình sẽ phải nói với anh ấy vì đó cũng là con của anh ấy nữa cơ mà”.
Khi tôi và Bill ngồi nói chuyện về em bé vào một buổi sáng trước khi bắt đầu công việc, anh ấy có hai phản ứng. Bill vô cùng phấn khích khi biết sắp có con, và sau đó anh ấy nói: “Em định không nói với anh ư? Em đang đùa đấy à?”.
Không mất quá nhiều thời gian đến lúc tôi nảy ra ý định tồi tệ đầu tiên về chuyện làm mẹ. Trên đường trở về từ Trung Quốc, tôi khiến Bill sốc khi tuyên bố: “Em sẽ không đi làm nữa sau khi sinh con. Em sẽ không trở lại”.
Bill thực sự sững sờ: “Ý em là gì, em sẽ không quay trở lại là sao?”. Và tôi đáp: “Chúng ta đã may mắn khi không cần có thu nhập của em. Vì vậy, đây sẽ là cách chúng ta nuôi sống gia đình mình. Anh sẽ không phải giảm tải công việc và em sẽ không cần phải đau đầu bố trí thời gian để vừa làm tốt công việc trên cơ quan, vừa chăm sóc được gia đình cùng một lúc”.
Tôi đã tiết lộ cho các bạn về cuộc trao đổi thẳng thắn này với Bill nhằm làm rõ một điểm quan trọng: Khi lần đầu tiên đối mặt với những thách thức của việc vừa phải đi làm, vừa là một người mẹ, tôi đã có một số việc lớn cần giải quyết. Vào thời điểm đó, mô hình của tôi là, khi các cặp vợ chồng có con, đàn ông đi làm và phụ nữ ở nhà.
Nói một cách thẳng thắn, tôi nghĩ sẽ thật tuyệt vời nếu phụ nữ muốn ở nhà. Nhưng đó phải là lựa chọn của họ, chứ không phải là thứ chúng ta nghĩ mình cần làm khi không còn lựa chọn nào khác. Tôi không hối tiếc về quyết định của mình. Nếu được làm lại, tôi vẫn sẽ quyết định như thế.
Tuy nhiên, điều đó khiến Bill chao đảo. Việc tôi làm ở Microsoft chiếm một phần quan trọng trong cuộc sống của cả hai.
Cuộc gặp định mệnh
Bill đồng sáng lập công ty Microsoft vào năm 1975. Tôi gia nhập Microsoft vào năm 1987, người phụ nữ duy nhất trong lớp thạc sĩ quản trị kinh doanh (MBA) đầu tiên. Không lâu sau đó, chúng tôi gặp nhau tại một sự kiện của công ty.
Tôi đang trong chuyến công du tới New York cho Microsoft thì bạn cùng phòng (chúng tôi ở hai người vào thời điểm đó để tiết kiệm chi phí) đề nghị tôi tới dự một bữa tiệc tối mà mình không biết trước. Tôi đến muộn và hầu hết các bàn đều đã có người ngồi ngoại trừ một chiếc bàn với hai ghế trống cạnh nhau. Tôi ngồi vào một trong hai ghế. Vài phút sau, Bill đến và ngồi vào ghế còn lại.
Chúng tôi trò chuyện trong lúc ăn tiệc vào tối hôm đó. Tôi cảm thấy anh ấy có vẻ thích thú, nhưng không nhận được tin tức gì từ anh ấy một khoảng thời gian sau đó. Rồi một thứ Bảy nọ, chúng tôi tình cờ gặp lại nhau ở bãi đỗ xe của công ty.
Bill mở lời trước và mời tôi đi chơi khoảng 2 tuần kể từ thứ Sáu. Tôi phá lên cười và nói: “Điều đó chẳng tự nhiên với em chút nào. Hãy mời em đi chơi khi gần đến buổi hẹn hò”. Tôi cũng cho anh ấy số điện thoại của mình.
Hai tiếng sau, anh ấy gọi điện khi tôi đang ở nhà và mời tôi đi chơi vào tối hôm đó. “Thế này đã đủ tự nhiên với em chưa?”, anh ấy hỏi.
Chúng tôi phát hiện mình có nhiều điểm chung. Cả hai đều yêu thích các câu đố và muốn giải đáp chúng. Vì vậy, chúng tôi đã cùng thi giải đố và chơi các trò về toán học.
Tôi nghĩ Bill đã bị thu hút khi tôi đánh bại anh ấy trong một trò chơi toán học và giành chiến thắng ngay lần đầu chúng tôi chơi Clue, một trò truy tìm thủ phạm giết người trong phòng bằng loại vũ khí cụ thể nào. Anh ấy giục tôi đọc “The Great Gatsby”, cuốn tiểu thuyết yêu thích của anh ấy và tôi đã làm điều đó tới hai lần.
Có lẽ, đó là lúc anh ấy biết mình đã gặp “một nửa” của cuộc đời mình. Anh ấy nói đó là sự se duyên lãng mạn.
Khi chúng tôi đính hôn, có người hỏi Bill: “Melinda khiến ông cảm thấy thế nào?”. Và anh ấy trả lời: “Thật ngạc nhiên, cô ấy khiến tôi cảm thấy muốn kết hôn”.
Tuy nhiên, cuộc trò chuyện của chúng tôi về con cái đã cho thấy rõ những ngày cả hai cùng làm việc tại Microsoft sắp chấm dứt.
Kế hoạch hóa gia đình
Khi nhìn lại, tôi nhận ra rằng, tôi đã đối mặt với một câu hỏi định hình cuộc sống trong những năm đầu tiên đó: “Bạn có muốn có sự nghiệp hay bạn muốn trở thành một người mẹ chỉ ở nhà?”. Và câu trả lời của tôi là: Phải. Đầu tiên là sự nghiệp, sau đó là người mẹ ở nhà, tiếp đến là sự kết hợp của cả hai và cuối cùng là trở lại với sự nghiệp”.
Tôi có cơ hội làm hai nghề và có gia đình trong mơ của mình vì chúng tôi may mắn không cần sống nhờ vào thu nhập của tôi. Ngoài ra, còn có một lý do khác mà mãi nhiều năm sau tôi mới hiểu đầy đủ tầm quan trọng của nó: Tôi được hưởng lợi từ một viên thuốc nhỏ, cho phép tôi có thời gian và phân tách thời điểm giữa các lần mang thai.
Không phải ngẫu nhiên mà tôi không dính bầu cho mãi tới khi mình đã làm việc gần một thập niên tại Microsoft và tôi cũng như Bill đã sẵn sàng có con. Không phải ngẫu nhiên mà Rory chào đời 3 năm sau Jenn và con gái út của chúng tôi, Phoebe được sinh ra 3 năm sau Rory.
Đó là quyết định của tôi và Bill cũng đồng ý theo cách đó. Tất nhiên, vẫn còn có yếu tố may mắn trong quá trình này. Tôi may mắn vì mình có thể mang thai khi tôi muốn. Nhưng tôi cũng có khả năng tránh thai khi tôi không muốn chuyện đó.
Công việc từ thiện
Bill và tôi chính thức thành lập Quỹ Bill & Melinda Gates vào năm 2000. Ngay từ đầu, chúng tôi đã tìm kiếm những vấn đề mà các chính phủ và các thị trường không giải quyết hoặc không thử áp dụng các giải pháp. Chúng tôi muốn khám phá ra ý tưởng lớn bị bỏ quên, cho phép một khoản đầu tư nhỏ có thể tạo nên những cải thiện lớn lao. Cứu sống những đứa trẻ là mục tiêu khởi xướng chương trình chăm sóc ý tế toàn cầu của chúng tôi. Và khoản đầu tư lớn đầu tiên của chúng tôi là vào vắc-xin.
Trong một chuyến công du thời kỳ đầu cho quỹ, tôi đã tới Malawi và cảm động sâu sắc khi nhìn thấy rất nhiều bà mẹ xếp hàng ngoài trời nắng nóng để chờ tiêm vắc-xin cho con mình. Tôi nhớ đã nhìn thấy một bà mẹ trẻ và hỏi cô ấy: “Bạn đang đưa những đứa con xinh đẹp này của mình tới để tiêm phòng ư?”. Cô ấy đáp: “Thế còn mũi tiêm dành cho tôi thì sao?”
Cô ấy không nói về việc chủng ngừa vắc-xin. Cô ấy đang đề cập tới Depo-Provera, một phát tiêm tránh thai có tác dụng kéo dài. Cô ấy chỉ là một trong số nhiều bà mẹ tôi gặp trong các chuyến công du đầu tiên của mình đã chuyển chủ đề thảo luận từ vắc-xin dành cho trẻ sang chuyện kế hoạch hóa gia đình.
Tôi thích đắm mình trong các số liệu thống kê và thực tế. Có một mối tương quan gần như hoàn hảo ở bất kỳ khía cạnh nào bạn tìm thấy trong thế giới dữ liệu. Nghèo đói đi đôi với những phụ nữ không có quyền lực. Nếu bạn tim kiếm sự thịnh vượng, bạn sẽ thấy những người phụ nữ có quyền lực và được sử dụng chúng.
Tôi mất nhiều năm mới nhận ra điều đó, nhưng khi đã làm được, đấy là một bản hùng ca. Nói một cách đơn giản, các biện pháp tránh thai là sự đổi mới tuyệt vời nhất từng được sáng tạo ra nhằm giúp xóa đói giảm nghèo, đem lại sức mạnh cho người phụ nữ và cứu sống nhiều mạng người.
Tuy nhiên, tôi là một người Công giáo. Tôi biết, việc trở thành một người ủng hộ kế hoạch hóa gia đình sẽ khiến tôi bị chỉ trích, việc tôi chưa từng gặp phải trước đây. Liệu tôi có thể đương đầu với điều đó?
… Tôi đã chấp nhận lời mời từ chính phủ Anh để đồng tài trợ cho một hội nghị thượng đỉnh về kế hoạch hóa gia đình ở London ngay trước Thế vận hội Olympics 2012. Ngay sau đó, tôi đã bị lên án trong một bài viết trên trang nhất của tờ L’Osservatore Romano, tờ báo chính thống của Vatican. Tôi bị coi đã “lạc lối” và “bị nhầm lẫn vì thông tin sai lệch”.
Bài báo cáo buộc tôi đã phủ nhận hoặc bóp méo giá trị của việc kế hoạch hóa gia đình tự nhiên, đồng thời cho rằng tôi đang bị các tập đoàn kinh doanh thuốc phòng tránh thai thao túng.
Theo tạp chí Forbes, câu chuyện cho thấy tôi “có thể phải đối mặt với đòn giáng”. Tôi chờ đợi đòn giáng, đồng thời chuẩn bị tinh thần với những lời công kích mình trên mạng trực tuyến, nhưng dù sao tất cả cũng gây nhức nhối.
Phản ứng đầu tiên của tôi là: “Tôi không tin họ lại nói như thế!”. Dẫu vậy, sau vài ngày, tôi trấn tĩnh lại. Tôi hiểu tại sao Nhà thờ lại có những phát biểu như thế. Nhưng tôi không đồng ý. Các biện pháp tránh thai đã cứu mạng hàng triệu phụ nữ và trẻ em. Đó là một thực tế trong lĩnh vực y tế.
Sự bất công rình rập những người phụ nữ tôi từng gặp trong những chuyến công tác tới một số nơi nghèo nhất thế giới. Họ không chỉ phải làm việc để kiếm tiền, mà còn phải đảm đương nhiều công việc không được trả thù lao nữa.
Tính trung bình, phụ nữ phải mất gấp đôi thời gian làm những công việc không công so với nam giới. Trên thế giới chẳng có quốc gia nào tồn tại khoảng cách đó bằng 0. Điều này đồng nghĩa, tính trung bình, phụ nữ mất hơn 7 năm làm việc không công so với nam giới. Đối với những phụ nữ dành toàn thời gian làm việc nội trợ và các công việc không có thù lao khác, công việc hàng ngày giết chết các giấc mơ trong cuộc đời họ.
Cuộc sống của bà nội trợ không như mơ
Suy nghĩ về khái niệm công việc không công đã định hình cách tôi nhìn nhận những gì xảy ra trong chính ngôi nhà của mình. Thành thật mà nói, tôi đã có sự trợ giúp tuyệt vời, lâu dài trong việc nuôi dạy con cái và quản lý các công việc gia đình, nhưng tôi nhận ra sự mất cân bằng ở những công việc không được trả thù lao trong chính ngôi nhà mình.
Có rất nhiều công việc liên quan đến nuôi dạy trẻ: đưa con đến trường, đến bác sĩ, đi luyện tập thể thao và tới các lớp học kịch; giám sát việc con làm bài tập về nhà; cùng thưởng thức các bữa ăn; giữ cho gia đình kết nối với bạn bè trong các bữa tiệc sinh nhật, đám cưới và lễ tốt nghiệp. Vào những thời điểm khác nhau, tôi đã đến gặp Bill, trong trạng thái kiệt sức và nói: “Giúp em với!”.
Khi Jenn bắt đầu đi học mẫu giáo vào mùa thu năm 2001, trường học của con bé cách nhà khoảng 40 phút lái xe. Và tôi đã phải đưa đón con bé 2 lần/ngày.
Khi tôi phàn nàn với Bill về khoảng thời gian tôi phải lái xe, anh ấy nói: “Anh có thể đảm đương một phần trong số đó”. Tôi hỏi lại: “Nghiêm túc đấy chứ? Anh sẽ làm việc ấy chứ?”. “Chắc chắn rồi. Việc đó sẽ cho anh thêm thời gian trò chuyện với Jenn”, Bill đáp và bắt đầu đưa đón con tới trường 2 lần/tuần.
Khoảng ba tuần sau, vào những ngày tôi đưa đón con đi học, tôi bắt đầu nhận thấy rất nhiều ông bố cũng đang làm việc đó. Khi đem thắc mắc hỏi một trong các bà mẹ, cô ấy cho hay: “Khi chúng tôi nhìn thấy Bill, chúng tôi về nhà và nói với chồng mình rằng: Này, Bill Gates cũng lái xe đưa con đi học đấy. Anh cũng có thể làm việc đó”.
Một vài năm sau, tôi thấy mình lại là người cuối cùng ở trong bếp sau bữa tối, dọn dẹp tất cả mọi thứ cho cả 5 thành viên trong gia đình. Điều này khiến tôi phẫn nộ. Tôi nói: “Không ai được rời phòng bếp cho đến khi mẹ rời khỏi đây”. Bill ủng hộ điều đó.
Hiện, một vài người có thể nghĩ: “Ồ, không, quý bà có đặc quyền đã mệt mỏi với việc là người cuối cùng ở trong bếp, một mình. Nhưng cô ấy không phải thức dậy trước bình minh. Việc cô ấy hỗ trợ chăm sóc trẻ là đúng”.
Tôi hiểu. Tôi mô tả lại tình cảnh của mình không phải vì nó có vấn đề, mà bởi vì tôi có lợi thế xét về khía cạnh này. Sự mất cân bằng giới tính trong những công việc không được trả thù lao là một chủ đề hấp dẫn đối với tôi, một phần vì nó là gánh nặng chung ràng buộc nhiều phụ nữ với nhau.
Rốt cuộc, ẩn ý trong mọi cuộc thảo luận về công việc không công là sự bình đẳng của mối quan hệ.
Khi lần đầu sinh Jenn, tôi cảm thấy rất cô đơn trong cuộc hôn nhân của mình. Bill là tổng giám đốc điều hành của Microsoft vào thời điểm đó. Anh ấy đã quá bận rộn. Mọi người đều cần anh ấy. Và tôi từng nghĩ, có lẽ anh ấy muốn có con về mặt lý thuyết, nhưng thực tế không phải vậy.
Ngay từ sớm, chúng tôi đã chuyển đến sống trong một ngôi nhà nhỏ, ấm cúng mà tôi chọn sau khi đính hôn. Anh ấy cảm thấy ổn với ngôi nhà đó. Nhưng một năm rưỡi sau, chúng tôi đã dọn đến ngôi nhà lớn hơn nhiều mà Bill đã bắt tay xây dựng từ hồi anh ấy còn độc thân.
Tôi đặc biệt không muốn chuyển đến ngôi nhà đó. Thực tế, tôi cảm thấy như Bill và tôi thậm chí không còn đồng cảm về những gì chúng tôi muốn và chúng tôi chẳng có mấy thời gian để trò chuyện.
Vì vậy, khi ở giữa tất cả những điều đó, tôi nghĩ tự mình đã rơi vào khủng hoảng. Và nó thúc đẩy tôi phải tìm ra tôi là ai và tôi muốn làm gì.
Tôi không còn là quản lý của một doanh nghiệp về máy tính. Tôi là một bà mẹ có một đứa con nhỏ cùng một người chồng vô cùng bận rộn, luôn phải đi công tác và chúng tôi sắp chuyển đến sống trong một ngôi nhà khổng lồ. Tôi tự hỏi mọi người sẽ nghĩ gì về tôi, vì ngôi nhà đó chứ không phải vì chính bản thân tôi. Đó là lúc tôi bắt đầu chinh phục một mối quan hệ vợ chồng bình đẳng.
Chúng tôi đã cùng nhau đi một chặng đường dài trong khoảng 20 năm hoặc lâu hơn kể từ đó. Bill thường xuyên tuyên bố trong các cuộc phỏng vấn rằng, anh ấy luôn có cộng sự trong mọi việc anh ấy từng làm. Điều đó đúng, nhưng không phải lúc nào anh ấy cũng có một cộng sự bình đẳng. Anh ấy đã phải học cách bình đẳng và tôi phải học cách tiến lên và trở thành người bạn đời bình đẳng.