Vào cuối thời kỳ Chiến tranh Thế giới thứ 2, bằng loạt các vụ thử nghiệm bom nguyên tử tại hòn đảo Bikini (phía tây Thái Bình Dương), Mỹ là quốc gia đầu tiên tạo nên thời kỳ mà lịch sử gọi với cái tên “Bình minh của kỷ nguyên nguyên tử”.
Chứng kiến sức mạnh hủy diệt khổng lồ của loại vũ khí khủng khiếp này, Mỹ trở thành quốc gia khiến nhiều nước trên thế giới thời kỳ đó phải e dè, canh chừng.
Để tiếp tục phát triển tham vọng bá chủ, Mỹ không ngừng nghiên cứu và phát triển loại vũ khí từ năng lượng hạt nhân đến chất độc hóa học và sinh học.
Song song với việc phát triển vũ khí, giới khoa học trong quân đội Mỹ đã thực hiện hàng loạt các thí nghiệm khủng khiếp lên cơ thể người nhằm đo mức tác động và tàn phá của chất phóng xạ, trong trường hợp cụ thể này là chất plutonium.
Sự kiện tiêm plutonium vào cơ thể người đầu tiên được Mỹ thực hiện xảy ra vào ngày 10/4/1945. Từ đó về sau, các nhà khoa học trong quân đội Mỹ đã thực hiện khoảng 400 cuộc thí nghiệm khủng khiếp này.
Những tưởng chỉ tiêm nguyên tố phóng xạ vào cơ thể người để đo mức độ tàn phá của chất phóng xạ lên con người, Mỹ còn thực hiện hàng loạt các thí nghiệm kinh khủng khác, trong đó không thể không kể đến dự án mang mật danh “Project 112″.
35 năm (1970 - 2005) sau ngày kết thúc những thí nghiệm khủng khiếp, man rợ này, công chúng Mỹ mới được biết về những việc làm mà chính phủ mình từng thực hiện vào cuối những năm 1960.
“Dự án thần chết” mang mật danh “Project 112” khủng khiếp đến mức nào?
Lo ngại trước những mối đe dọa từ các cuộc chiến sinh học và hóa học, Mỹ đã thực hiện loạt thí nghiệm không thể đáng sợ hơn trong lịch sử nước này.
Được xem là một trong những thí nghiệm “chết người” của Mỹ từ sau Thế chiến II, dự án “Project 112” thực sự là “cơn ác mộng” mà người ta khó có thể tưởng tượng nổi.
Dự án thử nghiệm vũ khí sinh học và hóa học mang mật danh “Project 112” được thực hiện dưới thời Tổng thống John F. Kennedy (1917 - 1963). Người trực tiếp chỉ đạo dự án là Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara (1916 - 2009).
Dưới sự phối hợp của CIA, Trung tâm thử nghiệm Deseret và Cơ quan Vật liệu Hóa chất quân đội Mỹ.
Trong suốt 7 năm (từ 1963 đến 1970), “Project 112” được thực hiện hoàn toàn bí mật.
Chương trình thử nghiệm được tiến hành trên quy mô lớn, trải rộng ở các đoàn hải quân từ Trung và Nam Thái Bình Dương đến Alaska và sau đó là kết hợp với giới quân đội ở Anh, Canada và Australia.
Để thực hiện thí nghiệm, quân đội Mỹ đã làm thí nghiệm trên hàng trăm thủy thủ thuộc lực lượng Hải quân Mỹ và hải quân các nước khác.
Sau khi lựa chọn những lính hải quân khỏe mạnh, giới khoa học quân sự Mỹ tiến hành xịt hơi độc (sinh học và hóa học) lên những người tham gia thí nghiệm để đánh giá mức độ độc hại của chúng; cũng như đo phản ứng “Controlled Temporary Incapacitation” (CTI - Mất kiểm soát thần kinh tạm thời) khác nhau của từng lính.
Liều lượng khí độc được thực hiện từ từ, từ nồng độ thấp đến cao, nhằm tránh các trường hợp tử vong đột ngột cho các lính hải quân.
Trong 7 năm, ít nhất 50 thí nghiệm hít hơi độc được thực hiện. Các chất cực độc quân sự mà giới khoa học quân sự Mỹ đưa ra thí nghiệm bao gồm: Sarin, VX, hơi cay…
Mặc dù tập trung vào các đối tượng thí nghiệm là giới quân đội nhằm tăng khả năng chiến đấu của họ trong bối cảnh các cuộc chiến tranh hóa học và sinh học xảy ra, Mỹ đã bí mật tiến hành thí nghiệm lên người bình thường, động vật, cây cối (để có kết quả tổng thể nhất về phản ứng của cơ thể người và sinh vật sau khi hít/tiếp xúc khí độc).
Ác mộng chưa dừng ở đó…
Về sau, Mỹ tiếp tục mở rộng thí nghiệm “Project 112” bằng dự án có tên “Project SHAD” nhằm thí nghiệm khả năng duy trì chiến đấu của tàu chiến trong các cuộc chiến tranh sinh học, hóa học có thật.
Trong suốt những năm cuối của thập niên 1960, Bộ Quốc phòng Mỹ tiến hành các trận đánh sinh học giả lên tàu chiến nhằm đánh giá khả năng phát hiện chất độc sinh học và hóa học của lính hải quân Mỹ.
Dự án “Project 112” là “bệ phóng” để thực hiện dự án tinh vi tiếp theo là “Project SHAD”. Theo đó, sau khi thí nghiệm mức độ chịu lượng chất độc nhất định (trong khuôn khổ “Project 112”) , lính hải quân Mỹ sẽ phải đối phó với việc phát hiện chất độc và vô hiệu hóa chất độc lan tỏa trên tàu nhằm giữ vững khả năng chiến đấu (trong khuôn khổ “Project SHAD”) nếu có chiến tranh sinh hóa học thật xảy ra..
Theo báo cáo ban đầu, sẽ có khoảng 143 thí nghiệm được thực hiện. Tuy nhiên, trên thực tế, Mỹ đã tiến hành khoảng 50 thí nghiệm.
Toàn bộ bí mật của các dự án thử nghiệm chất độc sinh hóa học này mãi đến năm 2005 mới được công khai. Nhưng, nhiều người đánh giá, những thông tin mà dư luận biết được rất ít ỏi.
Không ai nắm rõ những bí mật mà quân đội Mỹ đang giữ và đang tiến hành cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.