Bà Yachiyo Ichihara (72 tuổi) nhớ lại tuổi thơ của mình ở làng Wada - một trong những làng nghề săn bắt cá voi lâu đời nhất của Nhật Bản, mỗi ngày bà mang theo một cái xô lớn đi ra cảng để mua thịt cá voi đã được chia nhỏ.
“Nó thật sự rất ngon và nó cũng chính là nguồn thức ăn nuôi tôi lớn đến ngày hôm nay. Cá voi không chỉ là thức ăn mà nó còn là thứ giúp gia đình tôi quây quần bên nhau ở bữa cơm sau một ngày lao động vất vả”, bà chia sẻ.
Lúc bấy giờ, những người đàn ông sau khi mổ cá ở cảng sẽ mang từng thùng đến mọi con phố trong vùng, vừa đi vừa rao và mọi người sẽ chạy ra đón lấy chiếc xe hàng để mua cá. Năm 1986, lệnh cấm săn bắt cá voi được ban hành khiến món hàng này trở thành xa xỉ phẩm.
Sau khi Nhật Bản rút khỏi Ủy ban Cá voi Quốc tế vào 01/07/2019 vừa qua, lệnh cấm nhiều năm trước đã được gỡ bỏ giúp công việc khai thác và kinh doanh cá voi được tiếp diễn. “Dù vậy nhưng tôi thực sự lo lắng vì không biết trong tương lai còn những khó khăn nào sẽ ảnh hưởng đến việc kinh doanh của tôi”, bà Ichihara cho biết về việc lệnh cấm được xóa bỏ.
Bất chấp sự phản đối của cộng đồng quốc tế, Nhật Bản vẫn tiếp tục cho đánh bắt cá voi và khai thác loài sinh vật biển này. Tuy nhiên, thông tin này không khiến những người tham gia trực tiếp trong ngành đánh cá voi thêm vui mừng.
“Sau 30 năm bị cấm, đã có nhiều loại thực phẩm khác thay thế và người dân có nhiều lựa chọn hơn về thức ăn. Giờ đây cá voi không còn là thứ đặc sản mà thiếu nó người ta sẽ không sống được, cá voi không còn là kế sinh nhai cho những hộ dân làng biển ven bờ Thái Bình Dương nữa”, Kazuo Yamamura, Chủ tịch Hiệp hội Cá voi Nhật Bản, cho biết.
Theo thống kê chính thức của chính phủ, hiện có khoảng 300 người làm việc trực tiếp trong ngành săn bắt cá voi và thịt của loài cá này chỉ chiếm 0,1% tổng lượng tiêu thụ thịt của Nhật Bản, số liệu năm 2016. Ước tính 4.000 đến 5.000 tấn thịt cá voi được tiêu thụ mỗi năm ở quốc gia này, tương ứng với 40 gram cho mỗi người dân Nhật - khoảng một nửa quả táo.
Nhật Bản tới thời điểm hiện tại vẫn chưa đặt ra số cá voi tối đa mà ngư dân có thể đánh bắt, nhưng nhiều chuyên gia ước tính con số này sẽ rơi vào khoảng 180 con từ vùng biển bắc Thái Bình Dương và 330 con từ vùng biển quanh Châu Nam Cực.
Ở làng biển Minamiboso, hầu hết mọi hoạt động đều gắn liền với biển cả và cá voi. Tại đây, những bảo tàng cá voi được dựng lên và đặt bên trong là những bộ xương khổng lồ của loài cá này. Người dân thường đến bờ biển để tắm biển, lướt sóng và sinh hoạt cạnh xác của những con cá khổng lồ.
Theo một cuộc thăm dò không chính thức gần đây của Yahoo Nhật Bản được thực hiện trên 200.000 người, cho thấy có 58,2% thích ăn thịt cá voi, trong khi đó 28,3% trả lời là không và 13,5% còn lại cho biết mình chưa từng ăn thịt cá voi bao giờ.
Những người lớn tuổi ăn thịt cá voi rất thường xuyên khi còn trẻ nhưng giờ đây họ không còn tìm kiếm nó để ăn mỗi ngày, trong khi những người trẻ thì không có hứng thú với món ăn này như những thế hệ đi trước.
Thịt cá voi được chế biến thành rất nhiều món, bao gồm cốt cá voi, cá voi sống thái lát, cá voi bọc cốm chiên giòn, cá voi xông khói,… và còn nhiều món nữa được ghi kín những trang thực đơn. Những người ăn thịt cá voi cho biết nó có hàm lượng protein cao hơn cùng phát thải carbon thấp hơn trong quá trình sản xuất so với các loại thịt khác.
Chính phủ Nhật Bản cho biết ăn thịt cá voi là một truyền thống đã có từ lâu đời trong văn hóa Nhật. Tuy vậy, thực tế là món ăn này chỉ phổ biến sau khi Thế chiến thứ hai diễn ra, do chính quyền lúc bấy giờ khuyến khích người dân ăn thịt cá voi để cải thiện tình trạng đói nghèo của đất nước.
Thịt cá voi trở thành một món ăn không thể thiếu và gần như xuất hiện trong từng bữa ăn của mỗi gia đình vào thập niên 1960, tình hình khó khăn của đất nước lúc này khiến các loại thịt khác trở nên khan hiếm nhưng chỉ có thịt cá voi là có sẵn. Những người ở độ tuổi trung niên ngày nay đã có tuổi thơ được ăn thịt cá voi vào bữa trưa ở trường.
Cá voi tại Minamiboso không chỉ là món ăn mà nó còn được nâng tầm thành một nét văn hóa. Ở đây, các cuộc thi nấu ăn thịt cá voi được tổ chức thường niên nhằm tìm kiếm những đầu bếp tài ba sáng tạo ra các món ăn mới.