World Cup 2014, ngày 13/6. Hà Lan đang bị Tây Ban Nha dẫn trước 0-1. Phút 44, Daley Blind tung ra quả tạt chuẩn đến từng milimet ở bên phía cánh trái, bóng bay về phía Van Persie. Tưởng như Van Persie sẽ mất ít nhất 1 nhịp khống chế bóng, nhưng không. Anh tung người đánh đầu đúng chất “người Hà Lan bay”. Bóng đi theo một quỹ đạo không tưởng đi thẳng vào lưới Tây Ban Nha, còn Casillas chỉ biết chôn chân đứng nhìn.
Bàn thắng đó mở đầu cho chiến thắng 5-1 của Hà Lan trước Tây Ban Nha. Đương kim vô địch World Cup bị chính đội bóng họ hạ gục ở chung kết 4 năm trước vùi dập ngay trong ngày khai mạc. Với Van Persie, bàn thắng theo phong cách “người Hà Lan bay” ấy hội tụ tất cả những tinh túy anh có được từ trước đến nay, những phẩm chất anh đã thể hiện từ khi còn là một cậu bé mới tập chơi bóng cho đến lúc thành danh.
Nhà báo Hà Lan Leo Verheul là một trong những người đầu tiên nhìn ra tài năng của Van Persie ngay từ lúc còn chơi bóng ở lứa tuổi nhi đồng. Câu chuyện ông viết về Van Persie sẽ cho ta ta thấy một phần cuộc sống của chàng tiền đạo nay đã 35 tuổi, vốn chỉ biết đến ăn, ngủ và bóng đá:
“Cậu ấy hẳn chỉ mới 10 tuổi khi tôi lần đầu chứng kiến cậu ấy chơi bóng. Một buổi chiều Chủ nhật lười biếng, trong một sân chơi dành cho trẻ nhỏ ngay cạnh nhà hàng xóm chúng tôi ở vùng Kralingen, nơi đẹp nhất Rotterdam.
Cô con gái 3 tuổi của tôi ngồi chơi cùng những đứa bé mới lẫm chẫm tập đi khác. Tôi ngồi dưới ánh nắng, ngắm nhìn những đứa trẻ lớn hơn chơi bóng đá trong “chiếc lồng”, một sân chơi nhỏ nằm phía sau công viên.
Tôi để ý đến một trong số chúng. Robin van Persie, con trai của ông bạn Bob. Bob lúc nào cũng nói về con trai ông, nói rồi nó sẽ trở thành một ngôi sao bóng đá tầm cỡ thế giới. Ngay từ lúc Robin mới 6 tuổi, Bob đã luôn miệng nói đùa về việc tôi nên viết về con trai ông như thế nào.
Những đứa trẻ còn lại chơi bóng cùng Van Persie đều là người gốc Morocco. Nhiều năm sau, tôi mới nhận ra có 2 đứa trong số đó cũng trở thành những cầu thủ khá nổi tiếng. Said Boutahar, người từng chơi cho Real Zaragoza và Mounir El Hamdaoui, cựu cầu thủ Ajax.
Robin luôn chơi cùng hai cậu bé đó. Cậu nói chuyện giống như những người gốc Morocco tại đây, cùng âm điệu, đến cả cách nói thú vị. Cậu giống như một trong số chúng, và chơi bóng cũng giống. Luôn có những kỹ thuật mới như kiểu xỏ háng qua chân cầu thủ đối phương được chúng cải tiến, chỉnh sửa cho hoàn thiện dần.
Tôi rất thích xem đám trẻ đó chơi bóng. Chúng không chơi để hơn thua, mà để tận hưởng và thư giãn bản thân. Cậu Robin con trai ông bạn tôi là người giỏi nhất. Nhìn những pha xử lý bóng mềm mại bằng chân của cậu ấy, ta có cảm giác như cái chân trái đó là một cô gái đang yêu thắm thiết.
Những pha di chuyển nhanh, chậm được cậu kết hợp nhuần nhuyễn giống như một bartender chuyên nghiệp đang pha rượu vậy. Và những cú sút của cậu cũng thật tuyệt.
Rồi “chuyện đó” cũng xảy ra. Một trong số đám trẻ chặn cú sút lại, bóng bay lên trời, rơi xuống khu vườn nhà bên cạnh. Một âm thanh chát chúa vang lên giống như tiếng lợn bị chọc tiết. Một người đàn ông to béo - nhìn rõ là đang say xỉn bét nhè - chạy ra ngoài hét: “Lũ khốn châu Phi chúng mày! Tao đã bảo cút đi rồi mà”.
Nhưng ngay khi ông ta cúi người xuống định tịch thu quả bóng, một trong số đám trẻ nhảy vượt qua hàng rào, chạy vào khu vườn, dùng chân hất quả bóng lên, cầm lấy rồi chạy biến mất trước khi lão béo kia định làm gì khác.
Đúng lúc cậu bé chạy tới, ông ta định đá vào tay cậu, nhưng cậu bé rõ ràng nhanh hơn nhiều, nhanh chóng nhảy tránh ra. Kỹ năng chơi bóng đã cứu cậu thoát khỏi tình huống hiểm nghèo đó. Cú vung chân khiến người đàn ông kia mất thăng bằng, xoay vòng quanh, rồi ta nghe thấy một âm thanh không đời nào quên được - tiếng xương gãy.
Cả khu có thể nghe thấy mất. Lão béo nằm gào thét trong vườn, còn lũ trẻ chạy mất dạng. Tôi không nghĩ ai có thể đổ lỗi cho lũ trẻ về mọi chuyện diễn ra. Chúng được chơi bóng ở đó, và bị tấn công bởi một kẻ say xỉn mang thái độ phân biệt chủng tộc.
“Lão béo đó luôn đay nghiến, miệt thị và làm phiền chúng cháu”, Robin nói với tôi nhiều năm sau đó, khi tôi đến thăm cậu ấy ở London. Lúc đó cậu ấy đang chơi cho Arsenal, và mới thi đấu ở đội dự bị. Robin phải thích nghi dần ở một môi trường hoàn toàn mới, với những ngôi sao xung quanh như Dennis Bergkamp, Robert Pires và Thierry Henry. “Việc bị gãy chân hoàn toàn do lỗi của lão ta. Nhưng sau vụ đó, bọn cháu chuyển sang sân khác để chơi bóng”.
Thời gian dần trôi qua, cậu con trai của bạn tôi trở thành cầu thủ có một không hai tại địa phương. Tôi nhìn cậu bé đi trên đường phố, chẳng bao giờ thấy nó không có trái bóng bên cạnh cả.
Khi thằng bé tới trường, nó giả tưởng mỗi cột đèn đều là một đối thủ khó nhằn. Mỗi khi được bố sai vặt ra ngoài mua đồ, cậu bé đều tập tâng bóng. Trái bóng không rơi xuống đất ngay cả khi cậu vào cửa hàng. Cậu mua đồ, trả tiền, trái bóng vẫn nhảy múa xung quanh.
Robin thích đi bóng xuyên qua cửa hàng, xỏ háng những khách hàng khác. Cậu chỉ đơn giản là không thể kiềm chế thú vui đó. Đôi lúc trên đường phố, trong lúc trái bóng bay trên không, cậu tâng nó lên bằng gót, để bóng nảy về phía kính cửa sổ cửa hàng, rồi nhẹ nhàng giật bóng trở lại rồi đi như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Phía sau cậu, mọi người trầm trồ ngạc nhiên chứng kiến, tự hỏi cậu bé kia là ai.
“Bóng đá luôn là tình yêu lớn của tôi”, Robin thú nhận. “Đến khi đi ngủ tôi cũng phải có quả bóng bên cạnh, thật sự đấy. Khi tôi mới tán tỉnh cô vợ Bouchra, cô ấy hẳn nghĩ thằng cha này điên rồi. Khi mới 5 tuổi, tôi gia nhập CLB Excelsior, đội bóng hạng nhất ở Kralingen. Tôi lúc nào cũng luyện tập.
Mỗi buổi chiều, tôi lại tập cùng Aad Putter, HLV đội trẻ. Tôi không nghĩ mình sẽ trở thành siêu sao, chỉ là cho vui thôi. Tôi không muốn làm gì khác. Khi đám bạn muốn tới khu vui chơi, họ bắt xe bus hoặc tàu điện, còn tôi lấy bóng chạy ngay sau họ. Trường học là nơi khủng khiếp, bởi tôi không được đá bóng ở đó. Ngoài nơi ấy, tôi là người tự do.
Có lần ông Bob từng kể cho tôi nghe một câu chuyện về ngày ông mới cưới bà Jose, mẹ Robin. Cả hai người họ đều là họa sĩ, và họ nhận được một lời tiên tri nói có phải họ có 3 đứa con: hai gái, rồi đến cậu con trai út không. “Đúng như vậy luôn”, Bob cười nói với người phụ nữ tiên tri câu đó, “tôi sẽ trở lại nghe bà phán điều còn lại”.
Hai tuần sau khi Robin chào đời tháng 8/1983, Bob trở lại nghe nhà tiên tri kia. Bà nói cậu bé sẽ gặp vấn đề với trường học, nhưng sau này lại trở thành vua sân cỏ. “Một ngôi sao bóng đá vừa được sinh ra”, bà nói, “thằng bé sẽ rất giàu có và nổi tiếng”. Bob không thực sự thấy lời nói đó thuyết phục, nhưng ông muốn tin người này. Khi Robin mới biết đi, Bob đã bắt đầu mua bóng cao su cho cậu bé tập chơi.
Rồi mọi chuyện dần tệ hơn trong gia đình. Bob và người vợ Jose đường ai nấy đi, ông phải chuyển đi nơi khác. Vài năm sau, khi Robin gần đến sinh nhật 6 tuổi, Bob mở cửa nhà, thấy Jose đứng đó, vẻ mặt nghiêm trọng: “Robin có đến sống cùng anh không? Thằng bé không tự kiểm soát được bản thân. Nó chỉ muốn gặp anh”.
“Thằng bé gặp vấn đề”, Bob van Persie giải thích sau đó, “chỉ là hiếu động thái quá. Robin dư thừa năng lượng và phải vận động nhiều thôi. Thằng bé gặp nhiều thói xấu khi chơi bóng trên đường phố. Lần đầu trong đời tôi phải nghiêm khắc, phạt nó.
Rồi thằng bé cũng được gặp những người bạn tâm giao gốc Morocco. Từ đó, nó ăn ngủ cùng bóng đá, mơ ước được chơi bóng. Cứ như được cứu rỗi vậy. Bạn biết thằng bé tập ở đội trẻ Excelsior khi mới 12 tuổi chứ? Chỉ là cho vui thôi, nhưng thằng bé chỉ biết ăn ngủ và chơi bóng.
Trường học là nơi khủng khiếp với thằng bé. Tôi bị gọi mời gặp phụ huynh suốt, phải chịu trách nhiệm về việc Robin không chú ý nghe giảng và chẳng bao giờ làm bài tập về nhà. 'Trường học quan trọng cho tương lai con ông hơn là bóng đá, thưa ông', họ nói vậy. Nhưng tôi và Robin không đồng tình”.
Năm 13 tuổi, Robin đầu quân cho Feyenoord, đội bóng hàng đầu chuyên huấn luyện những cầu thủ chuyên nghiệp. Cậu dần tiến bộ từng bước qua đội trẻ. Tháng 2/2002, Robin lần đầu ra sân trong màu áo Feyenoord. Vài tháng sau, anh cùng đồng đội chơi trận chung kết UEFA Cup và chiến thắng. NHM phát cuồng vì cậu ấy. Van Persie trở thành người hùng ở địa phương, rồi lan ra cấp độ đội tuyển.
Mọi thứ đến thật nhanh, và cũng nhanh chóng kèm theo những chuyện sai trái. Sự tự tin quá mức của Van Persie quay ra làm hại cậu khi đối đầu với đồng đội - cựu binh Pierre van Hooydonk. Ngày 31/3, hai người xô xát đáng xấu hổ ngay trước mặt 5 vạn CĐV.
Robin, lính mới tò te mới lên đội một đúng 1 tháng, đẩy đàn anh ra ngoài để giành vị trí đá phạt. Quả phạt đó chếch bên cánh phải, nên cậu cảm thấy mình thích hợp hơn do thuận chân trái. Cú sút rất tốt, buộc thủ môn phải bay người cản phá. Nhưng Pierre van Hooydonk cảm thấy bất mãn vì đàn em vượt mặt, và HLV Bert van Marwijk cũng thấy vậy.
Sau khi vô địch UEFA Cup cùng Feyenoord, thành công bắt đầu làm Robin thay đổi. Cậu dần tỏ thái độ với đội bóng, tỏ ra không thích chiếc xe hơi hạng trung các cầu thủ của đội được tài trợ. Thay vào đó, cậu bỏ tiền mua một chiếc Mercedes mới toanh. Trên sân tập lẫn trong trận đấu, đồng đội nhìn cậu như thể một kẻ nổi loạn. Những tuyển thủ như Van Hooydonk và Paul Bosvelt thiết lập quân luật. Họ muốn Van Persie phải im tiếng.
Trước khi mùa giải mới bắt đầu, Van Hooydonk và Bosvelt nói chuyện với BHL, yêu cầu Van Persie phải được đối xử nghiêm khắc hơn. Họ muốn cậu ngồi dự bị để nguội cái đầu nóng. Nhưng mọi thứ chỉ càng tệ hơn, vào ngày Feyenoord vượt qua Fenerbahçe ở vòng loại Champions League.
15 phút trước khi trận đấu kết thúc, HLV bảo Robin khởi động, nhưng chỉ vài phút sau kêu cậu trở lại ngồi dự bị. HLV nghĩ Robin không đủ động lực thi đấu, và cậu nổi cáu. Sau trận đấu, khi Van Marwijk bắt tay cả đội mừng chiến thắng, Robin từ chối. Đó là khởi đầu của cuộc nội chiến kéo dài 2 năm dài đằng đẵng.
Chuyện đó không hề thay đổi cho đến khi Bert van Marwijk làm HLV trưởng ĐT Hà Lan giai đoạn 2008-2012. Ai cũng nghĩ mình không sai. Van Marwijk nói: “Tôi là người đầu tiên nghiêm khắc với cậu ấy. Cậu ấy chẳng bao giờ bị chỉ trích khi còn trẻ. Hy vọng ngày nào đó cậu ấy sẽ hiểu chuyện đó tốt cho bản thân. Tôi làm mọi thứ để cậu ấy không đi sai đường”.
Còn Van Perie phản pháo: “Tôi chưa bao giờ cảm thấy tin những kẻ không ngừng chỉ trích mình. Đến ngày cuối cùng ở đó, tôi phải ngồi dự bị với suy nghĩ mình không đủ khả năng đá cắm, mình chỉ là một cầu thủ chạy cánh trung bình. Khi xung quanh luôn chỉ trích, bạn sẽ ngừng lắng nghe và trở nên cứng cỏi. Ở Feyenoord, khi tôi mắc sai lầm, họ không ngừng la ó tôi, dù có thể góp ý với thiện chí xây dựng”.
Mùa Hè 2002, Robin vẫn còn cả chặng đường dài phía trước. Anh bị đẩy xuống đội trẻ chơi bóng, và thầm lặng chờ cơ hội chứng tỏ bản thân. Ngày 15/4/2004 trở thành định mệnh. Feyenoord gặp đội trẻ Ajax, đối thủ truyền kiếp trên sân khách. Đám đông 4 ngàn người trở nên điên cuồng, xúc phạm các cầu thủ.
Nhưng Robin vẫn chơi tuyệt hay trên sân. Cậu biết tuyển trách viên của Arsenal ngồi trên khán đài, vậy nên cậu chơi hết sức, ghi bàn, thách thức đám đông. Ngày hôm sau, tuyển trạch viên Steve Rowley của Arsenal gọi điện. Robin lập tức lên đường đến Arsenal.
Vào cuối năm đó, tôi đã đến thăm Robin ở London, tại cơ sở đào tạo mới của câu lạc bộ. HLV Arsene Wenger đã quyết định để cho cậu ấy bước những bước đi thật chậm rãi - đứa con của người bạn tôi hiện đang chơi ở đội B, nhưng khi nghe cậu ấy nói chuyện, có thể nhận thấy được sự thích thú trong ánh mắt long lanh của thằng bé. Con đường sự nghiệp của Robin đã không chỉ dừng lại ở Feyenoord.
“Chỉ một vài phút trò chuyện với Arsène Wenger đã là quá đủ,” cậu ấy nói với tôi. “Tôi biết tôi có thể tin tưởng vào ông ấy. Ông ấy phát cuồng bởi bóng đá giống y hệt tôi vậy. Ông ấy nói rằng tôi có tố chất, nhưng tôi cần phải kiên nhẫn.
Trong khi thương lượng, Wenger nói với tôi rằng 'Khi nào cậu có thể rê bóng vượt qua được Campbell và Touré trong những buổi tập, thì đó là lúc cậu có thể thi đấu!' Đó là tất cả những gì tôi muốn nghe. Ngay lập tức tôi đã cho Arsenal thấy.”
Cậu ấy kể với tôi một cách rất nhiệt tình về môi trường mới của mình. “Hai tháng đầu tiên như là địa ngục vậy. Tôi phải thực hiện một chế độ tập luyện đặc biệt với một anh chàng tên là Tony, người từng là lính Hải quân. Tôi cảm giác cứ như là mình chết đi mỗi đêm vậy. Nhưng bây giờ tôi đang tập luyện với Thierry, Pires, Bergkamp!
Tôi giống như một cái bọt biển, hấp thụ và học hỏi mọi thứ tôi nhìn thấy. Pires đã bị thương và xuống chơi với chúng tôi ở đội B. Chúng tôi đã có những bài tập cùng với nhau. Trời ạ, đó là sự thật, thật hạnh phúc biết bao. Tôi đang ở rất gần giấc mơ của mình, cảm tưởng như mình có thể với tay chạm lên tới bầu trời và ở rất gần với đỉnh cao mình hướng tới rồi.”
Nhưng trong chuyến thăm của mình, từ góc quan sát ở bên ngoài, tôi nhận thấy rằng Robin không phải ở “gần đỉnh” như cậu ấy cảm thấy. Vẫn còn một vài bài học nữa mà cậu ấy sẽ phải học trước khi nghĩ tới chuyện đó.
Ban đầu, tiền vệ người Hà Lan Dennis Bergkamp, huyền thoại Arsenal, dạy Robin phải làm những gì và làm điều đó như thế nào. Robin đã xem lại những đoạn phim về bài tập của mình để có thể tự phân tích những gì mình đã làm được.
Steve Rowley, người đã đưa Robin từ Feyenoord tới Arsenal, đều gửi cho cậu ấy những thông báo về tình hình tập luyện sau mỗi buổi tập. Rowley chỉ ra cho Robin rằng cậu ấy đang thiếu đi một điều gì đó. Đó là việc cậu chỉ hoạt động ở quanh khu vực cấm địa mà không lùi sâu hơn xuống giữa sân để tranh chấp bóng.
Nhưng rồi cậu ấy cũng tự tìm ra được câu trả lời cho chính mình. Arsene Wenger nổi điên bởi những tấm thẻ cả vàng, cả đỏ mà Robin phải nhận một cách thiếu suy nghĩ, cậu ấy cứ tự làm khó chính mình. Nhưng dần theo thời gian, mọi thứ cũng được cải thiện. Chỉ có điều, đúng vào lúc tình hình đang có tiến triển từng ngày thì Robin lại tự để mình vướng vào những rắc rối đời tư không đáng có.
Ngay sau khi cùng Arsenal lên ngôi tại FA Cup và có lần đầu tiên ra mắt trong màu áo ĐTQG Hà Lan, Robin van Persie đã gặp phải một cơn ác mộng tồi tệ nhất trong cuộc đời mình. Thàng 6/2005, cậu ấy bị bắt tại Rotterdam, chỉ vài ngày sau khi mùa giải vừa kết thúc với cáo buộc hãm hiếp. Robin phải ngồi trong tù vài tuần rồi sau đó mới được trả tự do.
Trong một buổi đêm muộn, Robin đã tới một khách sạn cùng với vài người bạn và một vũ nữ thoát y. Tất cả đã có một cuộc vui cùng nhau, nhưng rồi những trò đùa trở nên lố khi một kẻ trong số đó giấu quần áo của cô gái kia đi, người vũ nữ kể lại sự việc với sự tức giận.
Sau đó, một nhân viên khách sạn đã nghe cô ta nói chuyện qua điện thoại, khoe khoang về cầu thủ bóng đá nổi tiếng mà cô đã vui vẻ cùng. Và vào cuối ngày hôm đó, cô ta đã báo cảnh sát.
Phải đến vài tháng sau, thẩm phán mới đưa ra quyết định khép lại vụ kiện. Không có đủ bằng chứng để cấu thành tội và lời khai của cô gái có nhiều điểm mâu thuẫn. Nhưng đối với Robin, vụ việc này vẫn là một điều đáng xấu hổ. Mất nhiều năm sau để anh ta mới có thể khôi phục lại hình ảnh của mình và, tệ hơn, nó tưởng như còn khiến anh mất đi vị hôn phu của mình.
Nhưng Bouchra vẫn luôn chung tình. Cô tin vào Robin và chiến đấu để bảo vệ cho anh từ lúc bắt đầu vụ bê bối, khi tìm kiếm luật sư giỏi nhất để theo vụ kiện này. “Tình yêu của em bị tổn thương, nhưng tình bạn của chúng ta sẽ không bao giờ mất đi”, cô nói với Robin.
Đó thực sự là một bài học quan trọng cho sự trưởng thành của Robin van Persie. Ở tuổi 21, vẫn còn quá sớm để nói rằng bạn đã chạm tới thành công. Đừng làm những điều dối trá hay lừa lọc, hãy luôn trung thành ở bên cạnh những người mình yêu mến.
Và trong những năm tiếp theo, Robin đã làm tất cả để đáp lại tình cảm cho người luôn trung thành với anh là cô vợ Bouchra; những người luôn tin tưởng anh, đó là Arsene Wenger, là cả Arsenal; và không thể thiếu, đó là cả Steve Rowley, một nhân vật quan trọng khác trong cuộc đời anh.
Từ khi bắt đầu được tập luyện và thi đấu dưới sự dìu dắt của HLV Arsene Wenger, Robin van Persie đã tiến bộ không ngừng và trở thành một trong những cầu thủ xuất sắc nhất của bóng đá thế giới; cùng với đó là việc thành công ở cả Arsenal lẫn Manchester United.
Thỉnh thoảng lại có người hỏi tôi rằng: “Anh chàng là con trai của bạn anh, Robin van Persie, cậu ấy thích nhất điều gì vậy?”. Và câu trả lời của tôi là “Khỏe mạnh”.
Khỏe mạnh ở đây có nhiều nghĩa khác nhau. Với Robin, đó là sự khỏe mạnh của bản thân và lối sống lành mạnh cho cơ thể. Cậu ấy để ý kĩ những gì sẽ ăn, bổ sung những thứ mà một cầu thủ thực sự cần đến, không hút thuốc và không bao giờ uống rượu. Chủ yếu, cậu ấy có ba sở thích được xếp theo mức độ quan trọng: vợ con, bóng đá và bóng bàn. Cậu ấy thuộc mẫu người nhàm chán đến lạ thường.
“Tại nhà mình ở Manchester, tôi có một phòng giải trí, giống như tôi đã có ở London, với tất cả các mẫu áo thi đấu của mình ở trên tường. Giữa phòng sẽ có một bàn bóng bàn. Ai mà vào nhà tôi thì sẽ phải chơi ít nhất một ván với tôi và tôi thì đánh bại được tất cả.
Điều hài hước nhất là sau khi thua, họ muốn chơi thêm một ván nữa, kiểu như họ nghĩ mình không thể nào thua thêm một lần nữa được. Nhưng rồi tôi lại tiếp tục đánh bại họ hết ván này đến ván khác khiến cho đối phương nổi điên lên, còn tôi thì buồn cười muốn chết vì chuyện đó”.
Câu chuyện đó chính là ví dụ tiêu biểu cho Robin van Persie, một người luôn tôn thờ “đứa trẻ trong bản thân mình”. Đó là phong cách của một người nghệ sĩ, không phải là một kẻ hám tiền, cũng không phải là một nhà sưu tập các giải thưởng hay danh hiệu. Anh ấy là một cầu thủ, với dòng máu nghệ sĩ được thừa hưởng từ cha mẹ luôn cuộn trào trong huyết quản.
Bạn có thể nhìn thấy được điều đó trong một tình huống tiêu biểu vài năm về trước, khi Arsenal đối đầu với AC Milan tại trận lượt về vòng 1/8 Champions League 2011-12. Robin van Persie đón quả bóng bật ra ở ngay trước vòng 5m50 với tư thế vô cùng trống trải, anh hoàn toàn có thể đánh bại thủ môn Abbiati bằng một pha dứt điểm uy lực.
Nhưng thay vì làm như vậy, Robin lại chọn giải pháp bấm bóng. Không có bàn thắng trong tình huống đó khi thủ môn của AC Milan nhanh tay kịp cản trái bóng lại, nhưng đó là minh chứng rất rõ cho việc hướng tới một lối chơi đẹp của Robin van Persie.
“Thằng bé trước hết là một nghệ sĩ trên sân cỏ, hơn là một cầu thủ. Đó chính là động lực của Robin. Nó muốn làm nên được những điều nghệ thuật và để lại dấu ấn theo cách của riêng mình”, cha của Robin van Persie chia sẻ.
Vào mùa Hè năm 2012, Robin đã phải đối mặt với quyết định khó khăn nhất của cuộc đời mình khi phải lựa chọn liệu sẽ rời Arsenal hay ở lại?
“Tôi yêu câu lạc bộ đó, cùng với một sân vận động với bầu không khí tuyệt vời.” Robin nói với tôi. “Tôi là một Gunner và sẽ luôn là như thế. Một phần trong tôi đã bị tổn thương, nhưng tôi là người chiến thắng. Tôi luôn muốn giành chiến thắng và đó là thời điểm để giành được những danh hiệu. Tôi không bao giờ có thể ra đi vì tiền, nhưng tôi muốn có cơ hội để có làm dày thêm thanh tích trong sự nghiệp của mình.
Và quyết định được đưa ra là đúng đắn. Tôi đã giành chức vô địch với Manchester United ngay trong mùa giải đầu tiên. Và tôi phải nói rằng: Manchester United cũng là một câu lạc bộ tuyệt vời để bạn tới thi đấu. Tôi cảm thấy hạnh phúc ở đó.
Đây là lần đầu tiên trong đời tôi trở thành nhà vô địch của một giải đấu quốc gia! Đó như là một giấc mơ. Nhưng điều đẹp nhất không phải là danh hiệu có được, mà nó nằm trong cuộc hành trình đến chức vô địch xuyên suốt cả mùa giải”.
Khi được hỏi về những bí mật cá nhân của mình, anh cũng cho biết thêm:
“Tôi nghĩ sức mạnh lớn nhất của tôi là việc luôn giữ được sự tập trung. Có nhiều tiền đạo giống như phát điên khi có được bàn thắng, còn đối với tôi, sau mỗi pha ghi bàn tôi lại lùi sâu xuống một chút nơi hàng tiền vệ và tiếp tục bắt đầu pha bóng mới.
Giữ cho đầu óc của mình luôn tỉnh táo và tập trung vào nhiệm vụ của mình là điều rất quan trọng. Đôi khi, bạn không thể ghi bàn trong vài tuần, nếu điều đó thực sự xẩy ra: Đừng hoảng sợ! Hãy cứ bình tĩnh, suy nghĩ thư giãn và rồi bàn thắng tiếp theo sẽ đến thôi.
Không nên quá lo lắng. Đó là điều rất quan trọng, bởi cầu thủ như chúng tôi giờ đây thường xuyên phải chơi ba trận đấu trong vòng một tuần, nên kết quả là điều quan trọng nhất, phải tiết chế cảm xúc. Đó là cách tốt nhất để luôn có được sực cân bằng.”
Tôi cũng hỏi thêm Robin cho một câu hỏi rằng: Liệu những giấc mơ của cậu bé trong anh đã trở thành sự thật? “Vâng, đúng vậy”, cậu ấy trả lời. “Tất nhiên rồi. Tôi đang chính là người mà tôi muốn trở thành sau rất nhiều năm.”
Rồi Robin nhìn ra ngoài, một nụ cười xa xăm xuất hiện trên khuôn mặt anh. “Tôi vẫn còn là một cậu bé với một giấc mơ còn dang dở. Nhưng tôi sẽ cho anh biết điều đó là gì vào một ngày khác. Tôi đã ăn trưa cùng với Rio Ferdinand tại câu lạc bộ và rồi có bốn cầu thủ nhí khoảng 10 tuổi bước vào. Những cậu bé đó mặc trên mình bộ trang phục tập luyện tuyệt vời của Man United mà chúng yêu thích, quan sát xung quanh một cách tò mò.
‘Trong 10 hoặc 12 năm tới đây, có thể chúng sẽ chơi cho đội một’, tôi nói với Rio. “Nhìn những đứa trẻ đó. Chúng vẫn còn rất nhỏ. Đó có thể là thời gian đẹp nhất mà chúng đang có. Không có gì phải lo lắng. Cảm thấy mát mẻ khi mặc với bộ trang phục luyện tập phải mặc cả ngày.
Cả ngày dài với đôi giày và quả bóng. Dành tất cả thời gian. Trên đường phố, trong nhà, trên sân. Mệt mỏi? Không bao giờ! Đau cơ? Hầu như không bao giờ. Nhưng có lẽ với chúng ta giờ đây thì chỉ có thể có một ngày trong năm làm được như thế thôi. Thật đáng kinh ngạc khi bạn hồi phục theo cách giống như một đứa trẻ. Bạn không thể nghĩ được rằng mình đã bị thương, đơn giản bởi bạn không biết chính xác điều gì đã xảy ra với cơ thể mình.”
Sau đó, Robin như thể vừa bừng tỉnh và thức dậy từ một giấc mơ, với nụ cười trở lại trên môi và nói: “Giấc mơ lớn nhất của tôi, cho đến chừng nào có thể, đó là vẫn luôn giữ được đứa trẻ trong tôi từ trước đây, một đứa trẻ mà tôi vẫn cảm thấy ở bên trong mình. Đó chính là con người thật của tôi. Và đó là những gì tôi luôn muốn trở thành, chỉ là một đứa trẻ với một ước muốn duy nhất: Được chơi bóng đá!”