Mong muốn có con của người mẹ ung thư
Cách đây nửa năm câu chuyện nữ sản phụ Nguyễn Thị Liên (SN 1991, quê Lý Nhân, Hà Nam) bị ung thư vú giai đoạn cuối quyết tâm sinh con đã khiến nhiều người vô cùng cảm động.
Hôm 9/12, Bệnh viện K Trung ương lại một lần nữa được ghi nhận câu chuyện đẹp và ý nghĩa như vậy. Đó là trường hợp chị Nguyễn Thị H. (36 tuổi quê tại xã Quý Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang) điều trị ung thư vú ổn định gần 5 năm thì tạm dừng điều trị với mong muốn mang thai.
Chị H. vui mừng chờ đợi giây phút được làm mẹ nhưng đến tuần 28 khối u phát triển di căn não. Giữa nguy hiểm cận kề, chị vẫn quyết tâm giữ lại sinh linh bé bỏng đang mang trong mình - đứa trẻ mà chị hy vọng, ngóng chờ nhiều năm qua dù biết phải đánh đổi cả sinh mệnh của mình.
Nhớ lại khoảng thời gian phát hiện bệnh, chị H. thấy ngực thỉnh thoảng nhói đau, đi khám ở bệnh viện tỉnh thì chị phát hiện có khối u ở vú, ngay sau đó chị lên Bệnh viện K để khám và thực hiện tiểu phẫu, thật không may khi kết quả giải phẫu bệnh được bác sĩ chẩn đoán mắc ung thư vú.
“Tôi phát hiện bệnh ung thư vú cách đây hơn 6 năm, thời điểm ấy tôi khủng hoảng, suy sụp hoàn toàn, nhiều khi muốn buông xuôi. Tuy nhiên được gia đình và các bác sĩ động viên, tôi mới xuống điều trị tại Bệnh viện K. Tại đây, chứng kiến nhiều hoàn cảnh bệnh nhân khác khó khăn hơn mình, nan giải hơn mình mà họ vẫn kiên trì lạc quan chữa trị, nên tôi cũng cảm thấy bớt lo lắng về bệnh tình của mình, tin tưởng các bác sĩ, lạc quan chữa trị, không nghĩ ngợi gì nữa”, chị H. bày tỏ.
Khát khao làm mẹ nên chị H. sẵn sàng đánh đổi, điều trị ung thư nhưng vẫn quyết định mang thai. Người phụ nữ này bị bệnh nhưng luôn mong có thể ẵm bồng, ôm con trong vòng tay dù chẳng biết trước ngày mai sẽ ra sao, ngắn ngủi thôi, một thời khắc thôi chị cũng mãn nguyện.
Điều trị cho chị H. 5 năm, hơn ai hết các bác sĩ, điều dưỡng thấu hiểu nỗi lòng mong mỏi có được mụn con của chị H. Tại Bệnh viện K, không ít những bệnh nhân đã, đang điều trị ung thư vẫn quyết tâm sinh con, tình mẫu tử luôn thiêng liêng và cao cả như thế. Hiểu được khát vọng ấy lớn đến nhường nào nhưng các bác sĩ vẫn phải cân nhắc, đánh giá tình hình sức khoẻ và tư vấn kỹ lưỡng cho chị H. về nhiều khả năng có thể xảy ra khi chị mang thai, sinh con.
Chị H. điều trị ổn định gần 5 năm thì có nguyện vọng tạm dừng để mang thai. Dù rất chia sẻ nhưng bác sĩ vẫn phải kiểm tra về toàn bộ các chỉ số, đánh giá sức khoẻ của H.
“Chúng tôi đã hội chẩn kỹ về những hoá chất đã điều trị cho chị H. có ảnh hưởng gì nếu mang thai hay không”, TS.BS Hàn Thị Thanh Bình, Phó trưởng khoa Nội 5, bác sĩ trực tiếp tiếp nhận bệnh nhân H. từ ngày nhập viện chia sẻ.
Nghe bác sĩ tư vấn nhiều trường hợp nhưng có lẽ không gì ngăn nổi khát khao được làm mẹ, sự quyết tâm của chị đã chạm đến trái tim, cảm xúc của chính các bác sĩ, điều duy nhất, tốt nhất mà các bác sĩ Bệnh viện K có thể mang đến là tư vấn sức khoẻ cho mẹ, phối hợp bác sĩ chuyên khoa sản để chị được theo dõi, chăm sóc suốt thai kỳ.
Hành trình kỳ diệu của người mẹ
Đầu năm 2019, chị H cảm nhận thấy mình có dấu hiệu mang thai, mong ước làm mẹ bấy lâu nay đã thành hiện thực. Chị vẫn hàng ngày đi làm công nhân ở xí nghiệp may, mọi sinh hoạt đều diễn ra bình thường, nhưng không may, đến tháng thứ 7 chị cứ ăn vào là nôn, nghĩ là bị nghén vì cơ thể không có biểu hiện khác thường, gia đình đưa chị đến khám tại Bệnh viện Phụ sản TW, Bệnh viện K kiểm tra định kỳ. Đánh giá ban đầu, các bác sĩ nhận định trong quá trình mang thai khối u tiếp tục phát triển và di căn lên não.
“Dù ở tuần 28 có dấu hiệu giảm trí nhớ, nói không biết gì, gia đình phải trợ giúp hoàn toàn nhưng bệnh nhân H.vẫn quyết tâm giữ cháu bé”, bác sĩ Thanh Bình chia sẻ. Đến tuần thứ 34, trí nhớ suy giảm hoàn toàn, chị H. vẫn quyết tâm sinh con, chị bắt đầu hôn mê, thai có biểu hiện suy tim, ngay lập tức các bác sĩ quyết định mổ cứu hai mẹ con.
Ngày 29/10, bé gái Hương Giang nặng 2kg chào đời trong niềm hạnh phúc của cả gia đình và các bác sĩ tại Bệnh viện Phụ sản TW, nhưng mẹ bé - chị H. được chuyển sang Bệnh viện K để tiếp tục chữa trị.
Bác sĩ xác định, bệnh nhân H. được đánh giá là trường hợp đặc biệt với tổn thương ở phía hố sau cạnh các cấu trúc và kích thước tương đối lớn, nếu xạ phẫu 1 lần duy nhất thì trong tình trạng hôn mê, sức khoẻ bệnh nhân sẽ không đảm bảo. Do đó các bác sĩ quyết định xây dựng kế hoạch điều trị chia làm 3 phân liều cách nhau 2 tuần.
Tiếp nhận trường hợp chị H. sau sinh, TS.BS Nguyễn Đức Liên, Trưởng khoa Ngoại thần kinh Bệnh viện K cho biết,đây là trường hợp rất đặc biệt, sản phụ sau sinh được 3 ngày, phải chuyển khẩn cấp sang Bệnh viện K do ung thư vú di căn não. Khi vào viện khối u đã di căn vào não 3 ổ, đặc biệt di căn vào hố sau gây chèn ép, dẫn đến tình trạng hôn mê, chúng tối ngay lập tức quyết định điều trị bằng thuốc và điều trị bằng dao Gamma cho bệnh nhân H.
Theo bác sĩ Liên, khó khăn lớn nhất là phải cân nhắc giữa phẫu thuật mở thông thường và xạ phẫu Gamma Knife, do khối u khá lớn, vị trí 2 khối ở tiểu não, 1 khối ở bán cầu đại não, cả 3 khối cộng vào gây ra triệu chứng cộng hưởng.
“Chúng tôi phải hội chẩn với bác sĩ chuyên khoa về ung bướu thần kinh và u vú, đưa ra phác đồ điều trị phối hợp cùng nhau giúp bệnh nhân hồi phục, vì nếu chỉ tập trung vào điều trị u não thì có thể di căn bộ phận khác, nếu chỉ điều trị bệnh toàn thân thì có thể hôn mê, cơ thể không chịu được. Vì vậy, phải phối hợp nhịp nhàng, điều trị não trước, nếu mổ mở có thể chỉ giải quyết được 1 ổ, dao Gamma có thể giải quyết cùng một lúc cả 3 ổ, khối u được khống chế, giảm được thời gian hồi phục 2-3 tuần nếu mổ mở thông thường, tuy nhiên các phương án đều được cân nhắc”, TS. Liên đánh giá.
Hiện tại sức khoẻ hai mẹ con chị H. đã ổn định, mẹ tiếp tục được theo dõi, điều trị. Điều kỳ diệu đã đến với mẹ con chị H. sau bao nỗ lực của ekip các bác sĩ Bệnh viện K và nghị lực của chị. Sau khi điều trị với phác đồ bằng dao Gamma 2 ngày chị đã dần phục hồi trí nhớ, tỉnh táo trở lại. Sau 6 tuần điều trị, bệnh nhân H. đáp ứng thuốc rất tốt, khối u đã giảm 40% thể tích, và được kiểm soát tốt, bên cạnh đó việc phối hợp với điều trị hóa trị đã giúp kiểm soát bệnh rất tốt.
Chính vì có điều trị hóa chất nên hiệu quả kiểm soát khối u càng cao hơn, tránh được các đợt di căn khác lên não. Để làm được điều đó, phải nhấn mạnh rằng việc hội chẩn, phối hợp nội khoa, xạ phẫu và các chuyên gia thần kinh, vú đã phối hợp nhịp nhàng và rất chặt chẽ.
“Lúc ấy tôi cảm thấy rất vui mừng vì tỉnh táo trở lại, cả mẹ cả con đều khỏe, đã có lúc tôi nghĩ mình không qua khỏi nhưng rất may các bác sĩ đã nỗ lực để tôi được hồi sinh lần 2, được trở về với con”, chị H. xúc động chia sẻ.