Con đường nhỏ gập ghềnh, lúc xuyên qua làng mạc, lúc cắt qua cánh đồng, lúc uốn lượn triền đê dẫn đến ngôi chùa Đậu nằm cuối làng Gia Phúc (xã Nguyễn Trãi, Thường Tín, Hà Nội).
Chùa Đậu nằm giữa cánh đồng, có dòng sông Nhuệ chảy uốn lượn sau lưng và những hồ nước lớn bao bọc xung quanh khiến chùa như được tạo dựng ngoài đảo. Đứng từ xa nhìn lại, chợt động tâm thấy cảnh nước biếc gương soi thấu cửa thiền.
Ngôi chùa đẹp, rộng mênh mông, mà vắng khách. Đại đức Thích Thanh Nhung nhai trầu bỏm bẻm, chạy đi chạy lại như có vẻ đang bận việc gì.
Hỏi về hai pho tượng táng, là nhục thân hai vị thiền sư, ông mở cái tủ cũ kỹ, lục ra một số tư liệu, rồi đưa cho tôi ngồi đọc. Có lẽ, ai đến chùa cũng hỏi về hai vị thiền sư, thay vì phải trả lời, ông soạn ra tài liệu, nội dung ngắn gọn mà đầy đủ thông tin.
Lần vào phía nhà tổ, tôi thực sự choáng ngợp trước tấm bia đá rất lớn và tuyệt đẹp. Theo bia Dương Hòa thứ 5 (1639), thì ngôi chùa này được xây dựng từ thời Lý, thế kỷ thứ 11 và 12.
Còn theo truyền thuyết thì chùa được xây dựng từ thời Sĩ Nhiếp (thế kỷ thứ 3), cùng với chùa Dâu.
Khi đó, bầu trời ở phía Nam cung thành có một luồng kinh khí. Theo lệnh Vua, Quách Thông đã đi tìm hiểu sự lạ. Về tới đất Gia Phúc, thấy thế đất rất trông tựa dáng hình một đóa hoa sen đang nở tỏa sáng liền tả lại cho Sĩ Nhiếp.
Sĩ Nhiếp cho rằng hoa sen là nơi đất Phật, bèn cho lập Chùa, đặt tên là Thành Đạo Từ.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đặc biệt là sự tàn phá của chiến tranh, thời tiết, chùa đã được tu sửa nhiều lần, nên kiến trúc còn lại mang dấu ấn của thời Lê - Nguyễn.
Ngôi chùa này có tới 5 tên gọi khác nhau gồm Thành Đạo Từ, Pháp Vũ Tự, chùa Vua, chùa Bà và chùa Đậu.
Các cụ già ở thôn Gia Phúc giải thích rằng, tên gốc do Sĩ Nhiếp đặt là Thành Đạo Từ, nhưng chùa lại thờ Đức Pháp Vũ, nên gọi là Pháp Vũ Tự.
Ngày trước, do đích thân nhà vua tìm đất dựng chùa và ngôi chùa này vốn một thời chỉ dành cho vua chúa đến lễ, dân chỉ được lễ trong 3 ngày hội, nên mới gọi là chùa Vua. Bồ Tát hiện thân là giới nữ, nên dân lại gọi là chùa Bà.
Bậc chí sĩ đến chùa cầu nghiệp lớn được đậu đạt, người dân đến chùa cầu thì trồng cây đều ra hoa đậu quả, nên dân gian gọi là chùa Đậu. Cái tên giản dị này lại trở nên thông dụng nhất.
Cũng theo các cụ già trong làng Gia Phúc, trước khi bị thực dân Pháp đốt vào năm 1947, chùa còn lưu giữ rất nhiều vật quý vua ban, cả ngôi chính điện rất lớn và đẹp.
Tôi lang thang trên nền khu chính điện xưa kia với những chân cột đá lớn trơ trụi mà trong lòng trào dâng cảm giác luyến tiếc.
Trong gian nhà tổ tĩnh mịch trang nghiêm, nhục thân hai vị thiền sư nổi tiếng để lại xá lợi toàn thân Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường vẫn ngồi tư thế kiết già, trong tủ kính, sau khi được các nhà khoa học tu bổ.
Theo một cụ bà trông nom, quét dọn chùa, những ngày rằm, mùng một, dưới nền nhà thờ tổ, con nhang để tử kéo đến rất đông, ngồi khoanh chân chắp tay niệm phật. Họ mang đủ chuyện hỷ nộ ái ố đến “tâm sự” với ngài rồi cầu sự bình an.
Hiện trong chùa Đậu có tới 2 pho tượng thiền sư Vũ Khắc Minh và 2 pho thiền sư Vũ Khắc Trường. Tuy nhiên, chỉ có 2 pho thật chứa toàn thân xá lợi đặt ở nhà tổ, 2 pho bằng thạch cao để trong am thờ cạnh chùa. Vì am thờ dột nát, ẩm thấp, nên không thể để hai vị ngồi đó.
Truyền thuyết kể lại rằng, xưa kia, làng Gia Phúc có hai ông, một chú, một cháu, từ bé đến cuối đời chỉ ăn rau. Lớn lên một chút thì vào chùa Đậu tu hành.
Vậy nên, nhân dân quanh vùng thường gọi thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường là “nhà sư Rau”. Cả đời hai ông chỉ ăn một bữa cơm rau vào chính ngọ, rồi tụng kinh gõ mõ siêu độ cho nhân gian.
Đoán biết mệnh số đã tận, thiền sư Vũ Khắc Minh dặn đệ tử: “Sau đúng 100 ngày, nếu không nghe thấy tiếng mõ tụng kinh của ta nữa thì hãy mở cửa am. Nếu thi thể ta hôi thối thì dùng đất lấp am lại, còn thi thể ta nguyên vẹn, không có mùi thì lấy sơn bả lên người ta trước khi xây bịt kín am”.
Dặn xong đệ tử, ông mang theo một chum nước uống, một chum nhỏ đựng dầu thắp sáng rồi vào trong am ngồi tụng kinh, niệm Phật. Đệ tử bịt kín cửa am lại, chỉ để hở một lỗ nhỏ thông khí.
Đúng 100 ngày sau, không nghe thấy tiếng mõ tụng kinh nữa, đệ tử mở cửa am thì thấy nhà sư tịch trong tư thế ngồi thiền. Các đệ tử đã làm như thiền sư Vũ Khắc Minh dặn.
Theo truyền thuyết, người cháu của thiền sư Vũ Khắc Minh là Vũ Khắc Trường cũng vào am gõ mõ tụng kinh và hóa như vậy.
Câu chuyện về hai vị thiền sư viên tịch trong tư thế ngồi thiền, để lại xá lợi toàn thân, tồn tại như một truyền thuyết lưu truyền trong dân gian. Không ai tin đó là câu chuyện thật trên đời, nên xá lợi của vị thiền sư kỳ lạ này bị chìm vào quên lãng…
Năm 1983, theo yêu cầu của Văn phòng 10 Hội đồng Bộ trưởng, Viện Khảo cổ học cử một đoàn cán bộ, trong đó có PGS.TS Nguyễn Lân Cường về chùa Đậu kiểm tra sự xuống cấp của cái gác chuông.
Sau khi đi một vòng quan sát những di sản, hiện vật quý của chùa Đậu, nhà khảo cổ Nguyễn Lân Cường đứng rất lâu trước một chiếc am thờ bên cạnh chùa.
Ông Cường xúc động nhớ lại giây phút đặc biệt đó: “Tôi đã đứng lặng người rất lâu trước chiếc am nhỏ bên phải chùa. Thiền sư Vũ Khắc Minh ngồi đó, phía sau mành, đôi mắt lim dim như đang suy tư về cõi Phật”.
Phía bên phải chùa cũng có một chiếc am nữa. Bên trong tháp cũng có một vị thiền sư và theo trụ trì chùa, đó là nhục thân của thiền sư Vũ Khắc Trường, mà theo truyền thuyết là cháu của thiền sư Vũ Khắc Minh.
Tuy nhiên, theo ông Cường, không có cứ liệu nào khẳng định thiền sư Vũ Khắc Trường là cháu thiền sư Vũ Khắc Minh.
Như bị pho tượng kỳ lạ hút hồn, nhà khảo cổ Nguyễn Lân Cường đã tiến lại vén mành. Ông phát hiện ra vết nứt trên trán pho tượng. Qua vết nứt rất nhỏ, chỉ chừng 0,2cm, ông nhìn rõ xương sọ.
Như vậy, ông chắc chắn bên trong pho tượng này chứa hài cốt người, chỉ có điều đây là hình thức táng nào thì còn phải nghiên cứu kỹ mới có được câu trả lời.
Thế là, nhục thân thiền sư Vũ Khắc Minh được đưa về phòng chụp X-quang của Bệnh viện Bạch Mai. Qua các phim chụp, “nhà xương học” hàng đầu Việt Nam đã rất ngạc nhiên khi không phát hiện được vết đục nào trên hộp sọ.
Qua các tài liệu khoa học nghiên cứu về ướp xác, đặc biệt là các xác ướp nổi tiếng của Ai Cập, những nhà chuyên môn biết rằng, để ướp được xác, người ta thường đục thủng phần xương lá mía và nền sọ hoặc đỉnh sọ để lấy não. Sau đó, người ta độn vải hoặc những chất bảo quản vào trong xương sọ.
Từ việc không có vết đục ở sọ, nhà khoa học Nguyễn Lân Cường khẳng định rằng, não của thiền sư Vũ Khắc Minh đã không bị lấy ra khỏi cơ thể.
Nhưng liệu có phải các đệ tử đã dựng một pho tượng rỗng, rồi xắp xếp xương cốt của vị thiền sư này vào trong bụng pho tượng? Nhà khảo cổ Nguyễn Lân Cường khẳng định chắc chắn: “Qua những thước phim chiếu chụp, kể cả quá trình tu bổ pho tượng, chúng tôi đã không tìm được bất kỳ một vật liệu nào như chất kết dính, dây, giá đỡ… để cố định và đỡ xương.
Các xương cũng đều nằm đúng vị trí giải phẫu học”.
Sau nhiều ngày nghiên cứu, tìm hiểu, chiếu chụp, không tìm thấy chất kết dính, chuyên gia “đào mồ cuốc mả” Nguyễn Lân Cường đã khẳng định với toàn thể thế giới rằng, ông đã phát hiện ra một hình thức táng mới ở Việt Nam.
Ông đặt tên cho hình thức táng này là tượng táng hoặc thiền táng. Từ đấy, giới khoa học gọi nhục thân của các vị thiền sư ở Việt Nam là tượng táng, riêng giới nhà Phật thì thích cách gọi thiền táng hơn.
Sau này, khi nghiên cứu rộng ra toàn thế giới, PGS. Nguyễn Lân Cường mới biết rằng, táng thức này cũng có ở Trung Quốc, mà cụ thể là di hài Lục Tổ Huệ Năng (638 - 713).
Hiện nhục thân vẫn còn đến hôm nay và được để ở chùa Hoa Nam (huyện Thiều Quang, Quảng Đông).
Trong các tài liệu chính sử của Việt Nam cũng ghi chép về việc Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, thiền sư Giác Hải để lại toàn thân xá lợi sau khi hóa. Tuy nhiên, trải qua binh biến, giặc giã, hiện xá lợi của những tổ sư này không còn nữa.
Để tìm được câu trả lời về cách táng tượng này, nhà nhân chủng học Nguyễn Lân Cường đã cùng các nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu nhiều năm ròng. Việc tìm hiểu chất liệu để làm tượng được các nhà khoa học đặc biệt chú ý.
Các nhà khoa học đã tìm ra chất liệu làm tượng giữ thi hài thiền sư Vũ Khắc Minh và thiền sư Vũ Khắc Trường khá đơn giản, gồm sơn ta, đất tổ mối, mùn cưa, giấy bản…
Qua việc nghiên cứu nhục thân của hai vị thiền sư Chùa Đậu, kết hợp với truyền thuyết dân gian, PGS Nguyễn Lân Cường đã mô tả hành trình táng tượng như sau:
Sau 100 ngày nhập tịch, tiếng mõ trong am cạnh chùa dứt, các học trò đã mở am, phát hiện thiền sư Vũ Khắc Minh tịch trong tư thế vẫn ngồi kiết già, không có mùi hôi thối, các học trò đã lập tức tiến hành táng tượng.
Đất gò mối rất mịn, tơi, mùn cưa, giấy bản giã thành bột, được trộn với sơn ta chiết xuất từ cây sơn thành một loại hỗn hợp. Người ta đã quét hỗn hợp này lên cơ thể thiền sư Vũ Khắc Minh một lớp dày để làm khung đỡ giữ cho xác nguyên dạng.
Tiếp đó, người ta quét một lớp sơn ta kết hợp với việc dát những lá bạc mỏng. Lớp ngoài cùng là quang dầu. PGS. Nguyễn Lân Cường phát hiện ra rằng, kỹ thuật làm chất bồi để tượng táng các thiền sư cũng giống như cách tạo hoành phi, câu đối ở các đình chùa nước ta.
Khám phá được chất liệu làm tượng táng, đúng 20 năm sau ngày phát hiện ra hai pho tượng chứa nhục thân bất hoại, năm 2003, PGS.TS. Nguyễn Lân Cường đã cùng các nghệ nhân đã tiến hành tu bổ hai pho tượng chứa xá lợi toàn thân này.
Những vết nứt trên tượng táng thiền sư Vũ Khắc Minh được kết lại, xương cốt thiền sư Vũ Khắc Trường cũng được xắp xếp lại do khá lộn xộn.
Hai vị thiền sư đầy huyền thoại đã yên vị trong ngôi nhà tổ và được bảo quản kỹ càng trong tủ kính với môi trường khí ni-tơ đậm đặc. Với sự bảo quản kỹ lưỡng như thế này, nhục thân hai vị thiền sư sẽ là bất hoại.
Hàng vạn Phật tử không những cả nước mà khắp thế giới đã và đang tìm về chiêm bái hai vị thiền sư. Hàng chục bí mật bao phủ quanh hai vị thiền sư này đã được chuyên gia Nguyễn Lân Cường tìm ra.
Tuy nhiên, vẫn còn hàng trăm bí mật mà PGS.TS. Nguyễn Lân Cường cũng như các nhà khoa học khắp thế giới vẫn chưa tìm được câu trả lời.
Bí mật lớn nhất đó là, tại sao nội tạng, da thịt của các vị thiền sư không bị thối rữa, mà vón lại thành cục, hoặc khô quắt lại, trong khi các vị thiền sư này không dùng bất cứ một loại chất ướp xác nào?
Còn tiếp…