Sắc màu Cuộc Sống

Những hồi ức đáng nhớ của nữ giáo viên 12 năm cùng học trò trèo đèo lội suối 'gieo con chữ' nơi vùng cao

Định Nguyễn
Chia sẻ

Trong suốt 12 năm qua, bằng tình yêu, trách nhiệm và lòng yêu nghề, nữ giáo viên Bùi Minh Khuyên cùng nhiều đồng nghiệp khác trải qua bao thiếu thốn để được đứng trên bục giảng, gieo con chữ cho những đứa trẻ vùng cao.

12 năm vật lộn gieo con chữ nơi vùng cao

Đều đặn từ sáng sớm, cô Bùi Minh Khuyên (33 tuổi), giáo viên của trường Phổ thông Dân tộc Bán trú Tiểu học Pa Ủ, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu dậy rất sớm tranh thủ lo cho con rồi đến trường dạy học. Nơi cô dạy thật đặc biệt bởi ở đó là những thế hệ trẻ nhỏ từng chịu nhiều thiệt thòi khi thiếu thốn đủ bề.

Những hồi ức đáng nhớ của nữ giáo viên 12 năm cùng học trò trèo đèo lội suối 'gieo con chữ' nơi vùng cao Ảnh 1
Những hồi ức đáng nhớ của nữ giáo viên 12 năm cùng học trò trèo đèo lội suối 'gieo con chữ' nơi vùng cao Ảnh 2
Những hồi ức đáng nhớ của nữ giáo viên 12 năm cùng học trò trèo đèo lội suối 'gieo con chữ' nơi vùng cao Ảnh 3
Suốt 12 năm qua cô Khuyên luôn kiên trì gieo con chữ nơi vùng cao.

Sinh ra và lớn lên ở vùng đất Phú Thọ, năm 2008 cô giáo Bùi Minh Khuyên  tốt nghiệp trường Cao đẳng Sư phạm Điện Biên hệ trung cấp. Kể từ đó, nữ giáo viên lần lượt công tác 2 năm tại trường Phổ thông dân tộc bán trú tiểu học Nậm Manh (Nậm Nhùn, Lai Châu) và trường Nậm Khao (Mường Tè) 6 năm.

Để đứng lớp, không phải là điều đơn giản, nhất là với những thầy cô giáo miền xuôi. Với cô Khuyên quãng thời gian phải đi cơ sở cũng khiến cô có nhiều kỷ niệm khó quên. Bởi đến được trường Nậm Manh và Nậm Khao, cô phải di chuyển khá vất vả, cách trung tâm 20-30km đường đồi núi hiểm trở, khó đi.

Những hồi ức đáng nhớ của nữ giáo viên 12 năm cùng học trò trèo đèo lội suối 'gieo con chữ' nơi vùng cao Ảnh 4
Hình ảnh giáo viên vượt đường đồi núi hiểm trở đón học trò.

Để di chuyển đến hai điểm trường này buộc phải di chuyển qua sông Đà. Dòng sông nước chảy siết, chiếc thuyền dài chở tối đa được 4 người chênh vênh giữa dòng nước lớn. Những năm 2008 chưa có thuyền máy, người lái thuyền bằng mái chèo, giáo viên ngồi trên tích cực dùng gáo múc nước bắn vào thuyền để tránh bị chìm, lật úp. 

Kết thúc gần 30 phút chật vật giữa dòng lũ, các giáo viên phải đi bộ 8km đường rừng, mất chừng 4 tiếng để đến nơi. 

"Nắng thì đỡ, chứ mưa thì trơn trượt, đường đi chỉ đặt vừa một bàn chân, 1 bên là vực, 1 bên là bờ Tả Ly Dương, trên lưng là lương thực gồm thức ăn tươi, cá khô, lạc rang để ăn trong tuần. 

Những hồi ức đáng nhớ của nữ giáo viên 12 năm cùng học trò trèo đèo lội suối 'gieo con chữ' nơi vùng cao Ảnh 5
Để đến được điểm trường giáo viên và học sinh phải trèo đèo, lội suối.

Mỗi điểm trường thường được dựng bằng nhà tạm trên đỉnh núi đồi, tách biệt hoàn toàn với nhà dân để tránh trường hợp học sinh chán học bỏ về. Thiếu thốn về chỗ ở, chỗ học, lại kết hợp với bão lũ, dông lốc càng khiến thầy cô gặp nhiều khó khăn", cô nhớ lại.

Sau 2 năm ra trường, cô Khuyên bắt đầu được phân đi các điểm trường, nơi ở, phòng học chủ yếu là nhà bạt, ít có nhà mái tôn được xây dựng kiên cố.

Mỗi điểm trường có từ 1 – 2 giáo viên. Lên được 3 ngày thì có bão, khi các thầy cô chạy sang trú ở phòng hội đồng thì cô Khuyên vẫn đâng cố dùng bạt che chắn sách vở cho học sinh. Gió rít, mưa ngày càng lớn, khi vừa chạy sang nhà trú thì cả căn nhà tạm của cô Khuyên bị gió tốc mái, đồ đạc bay tứ tung.

Ký ức những ngày "3 không"

Đến năm thứ hai, thầy cô vừa làm một căn bếp tạm để giáo viên nấu cơm, nhưng mưa bão đã cuốn phăng căn nhà bếp từ triền đồi xuống dưới đường chính. Thế nhưng khó khăn đó chưa là gì khi nơi đây thời điểm đó vẫn còn "3 không" (không điện, không nước, không sóng điện thoại).

Những hồi ức đáng nhớ của nữ giáo viên 12 năm cùng học trò trèo đèo lội suối 'gieo con chữ' nơi vùng cao Ảnh 6
Những hồi ức đáng nhớ của nữ giáo viên 12 năm cùng học trò trèo đèo lội suối 'gieo con chữ' nơi vùng cao Ảnh 7
Cô Khuyên bên học trò của mình.

Ban ngày, cô trò tận dụng ánh sáng mặt trời để học, lúc lại dùng đèn dầu để thắp sáng. Cố gắng dọn dẹp, soạn bài giảng, rồi nấu cơm trước khi trời tối. Đến tầm 20-21h, thầy cô buộc phải đi ngủ vì “chẳng có gì để làm do không có điện”.

Sau giờ học, thầy cô lại chia sẻ việc, người mang can đi xách nước suối về ăn uống, sinh hoạt, người lại tranh thủ đi trồng rau xanh để cải thiện bữa ăn chỉ toàn đồ khô.

Việc xách nước cũng không hề đơn giản khi phải đi bộ vài trăm mét xách nước. Xách xong ai nấy đều mệt nhoài, chân tay rã rời. Việc lấy nước suối khó khăn nên dùng gì cũng phải tiết kiệm, một xô nước có khi dùng để vo gạo, rửa rau, rửa bát…

Những hồi ức đáng nhớ của nữ giáo viên 12 năm cùng học trò trèo đèo lội suối 'gieo con chữ' nơi vùng cao Ảnh 8
Hình ảnh học sinh học con chữ lúc trời tối.
Những hồi ức đáng nhớ của nữ giáo viên 12 năm cùng học trò trèo đèo lội suối 'gieo con chữ' nơi vùng cao Ảnh 9
Trẻ em nhỏ nơi vùng cao Lai Châu.

Sống xa nhà, niềm an ủi nhất của cô Khuyên cùng các đồng nghiệp khác đó là gia đình. Thế nhưng không có sóng điện thoại khiến thứ tưởng chừng như đơn giản lại trở nên xa xỉ ở nơi đây.

Theo lời nữ giáo viên, cả trường chỉ duy nhất có chỗ bắt được sóng. Thầy cô phải đóng cột gỗ, đặt điện thoại đúng một vị trí, bởi nếu lệch một chút cũng không có sóng. Thời điểm đầu chưa kéo điện về điểm trường, thầy cô buộc phải viết thư tay, nhưng đường đi vất vả nên đành hạn chế gửi. Mãi đến khi có điện thì sóng yếu, gọi câu được câu mất. 

Với cô Khuyên, sự thiếu thốn về cơ sở vật chất, thời tiết khắc nghiệt cũng không vất vả bằng việc bắt trẻ đi học. Do đó, cô và những đồng nghiệp thường xuyên phải đến từng nhà, từng bản để vận động học sinh đến trường.

Những hồi ức đáng nhớ của nữ giáo viên 12 năm cùng học trò trèo đèo lội suối 'gieo con chữ' nơi vùng cao Ảnh 10
Với nữ giáo viên, niềm vui lớn nhất của cô trong ngày 20/11 không phải là những bó hoa, những lời chúc mà các em đi học đầy đủ, ngoan ngoãn khi lên lớp.

Để đi thuyết phục phụ huynh cho con đến trường, các thầy cô buộc băng qua những con đường đầy đá tảng, lội qua nước lũ và cả con đường bùn đất kẹt cứng bánh xe.

Vất vả là vậy nhưng không ít lần cô phải nhận về những ánh mắt giận dỗi của bọn trẻ và đôi khi là cả phụ huynh. Những lúc như thế, cô lại phải giải thích cho phụ huynh để giúp họ hiểu sự cần thiết của việc cho con học là họ sẽ đồng ý.

Ba năm trở lại đây, nữ giáo viên được nhà trường chuyển về trường trung tâm (trường chính) để công tác. Tuỳ lịch trực, có trưa cô Khuyên được về nhà, nhưng có lúc ở lại chăm cho học sinh ăn uống, đi ngủ để chiều lên lớp.

Với nữ giáo viên, niềm vui lớn nhất của cô trong ngày 20/11 không phải là những bó hoa, những lời chúc to tát. Từ lúc bước chân vào nghề giáo đến nay, cô Khuyên chỉ mong các em học sinh đi học đầy đủ, ngoan ngoãn khi lên lớp.

Thầy Hà Ánh Hùng, Hiệu trưởng trường Pa Ủ cho biết, Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Pa Ủ hiện có 578 học sinh từ lớp 1 đến lớp 5. Hai điểm trường chính với 400 học sinh, 10 điểm trường lẻ ở bản xa chủ yếu dạy học sinh lớp 1, 2 với hơn 100 học sinh. 

Năm nay 6/10 điểm trường xa đang mở để đón học sinh. Hiện, toàn trường có 60 thầy cô làm công tác giảng dạy.

Nói về cô giáo Bùi Minh Khuyên, thầy Hùng cho biết cô đã về trường công tác được 5 năm, giảng dạy dạy các môn văn hoá. Từ công việc chuyên môn cho đến cuộc sống, cô giáo Khuyên luôn nỗ lực phấn đấu trong mọi mặt nên luôn được đồng nghiệp đánh giá cao, học sinh yêu quý.

Chia sẻ

Bài viết

Định Nguyễn

Tin liên quan

Loading...Loading...Loading...
Tin mới nhất