Hai ngôi mộ thuộc về vị quan có tên Hu Hong cùng phu nhân là Wu. Chúng được phát hiện tại quận Thanh Nguyên, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Phu nhân Wu được chôn cùng rất nhiều trang sức có gái trị được làm bằng vàng và bạc. Còn bên trong mộ của vị quan Hu Hong có một chiếc bình sứ có trạm khắc hình voi.
Tại nơi khai quật, các chuyên gia còn tìm thấy một bản khắc rất dài mô tả về cuộc đời của ông, trong đó có ghi rõ ông từng là một quan chức cấp cao của triều đại nhà Nam Tống trong thời kỳ phong kiến Trung Quốc, chuyên phụ trách truy tố, phán xử những kẻ nổi loạn, trộm cắp. Các nhà nghiên cứu nhận định rằng rất có thể, vị quan cùng phu nhân của ông sống tại thời điểm các triều đại ở Trung Quốc rơi vào thời kỳ loạn lạc.
Theo văn bản được chôn cùng ông, Hu Hong là một vị quan cố vấn cấp cao cho triều đình Nam Tống (1127-1279). Ông giữ trọng trách và là “người phán xử” từ năm 1195. Ông đã thể hiện tính cách khảng khái cũng như tài phán xử công bằng, đặc biệt khi triều đình mở cuộc đàn áp các nhóm tôn giáo có mưu đồ phản vua, phản quốc.
Trong quá trình khai quật, nhóm khảo cổ phát hiện ra rằng trong khi khá nhiều đồ đạc chôn trong ngôi mộ của Hu bị cướp, thì mộ phu nhân Wu lại hoàn toàn nguyên vện, tuy vậy chữ được khắc trong phần mộ cua bà hầu như không còn rõ ràng. Thi thể của phu nhân Wu được chôn với môt lượng lớn thủy ngân, nhưng chúng cũng không ngăn cản được quá trình phân hủy tự nhiên.
Theo ghi chép trong lịch sử, vị quan Hu Hong sinh năm 1147, trong một gia đình nghèo. Ông rất thích đọc sách, nhưng lại không có tiền mua sách. Vì vậy, khi thấy những người bán sách rong trên đường, ông sẽ hỏi mượn và trả lại vào ngày hôm sau. Từ nhỏ, Hu Hong đã bộc lộ tài thiên bẩm.
Năm 1163, ông tham gia khoa cử và giành trạng nguyên, chính thức làm quan tại triều đình. Đến năm 1193, ông được triều đình công nhân là “vị quan phán xử giỏi nhất”. Tuy nhiên khi nhận ra vấn đề trong nội bộ quan lại, ông khăng khăng đòi cáo quan dù vẫn nhiều mối lo cho dân tộc, bởi lo ngại sự thẳng thắn và liêm trực của mình sớm muộn cũng tự hại bản thân và gia đình.
Vị quan liêm chính này qua đời vào năm 1203. Đến năm 1206, phu nhân của ông cũng qua đời. Trước khi lâm chung, họ yêu cầu phần mộ của họ phải được đặt cạnh nhau.