Các y bác sĩ tại Khoa Cấp cứu - Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Thọ vừa tiếp nhận một ca bệnh nhiễm vi khuẩn Whitmore, hay còn gọi là “vi khuẩn ăn thịt người” tấn công.
Đó là trường hợp của người bệnh N.T.Th., (sinh năm 1994, làm ruộng ở Nhữ Hán, Yên Sơn, Tuyên Quang). Theo đó, trước vào viện 18 ngày chị Th. bị sưng đau vú phải, sốt cao liên tục 40 - 41 độ, khó thở.
Chị Th đã điều trị ở 3 Bệnh viện ở Tuyên Quang nhưng không đỡ, gia đình xin chuyển xuống Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Thọ trong tình trạng tỉnh chậm, thể trạng nhiễm trùng nặng, sốt cao liên tục 40 độ C, khó thở nhiều, thiếu máu, thể trạng suy kiệt, nhiều ổ áp xe lớn nhỏ ở nhiều vị trí khác nhau trên cơ thể.
Tại Khoa Cấp cứu, các bác sĩ đã chẩn đoán bệnh nhân bị nhiễm vi khuẩn Whitmore. Các bác sĩ đã tiến hành cấy đờm, cấy máu, cấy dịch ổ áp xe tại tuyến vú và cho người bệnh làm các xét nghiệm cần thiết, điều trị kháng sinh theo phác đồ nhiễm Whitmore.
Sau 5 ngày điều trị tích cực, dẫn lưu các ổ áp xe dưới hướng dẫn siêu âm, người bệnh đã cắt sốt, các triệu chứng nhiễm trùng giảm nhiều. Ba tuần điều trị tiếp theo, các ổ áp xe đã biến mất, các xét nghiệm đã trở về giới hạn bình thường. Người bệnh được ra viện tiếp tục điều trị theo phác đồ duy trì và hẹn tái khám.
Theo các bác sĩ, bệnh Whitmore (còn có tên gọi khác là Melioidosis, hay “vi khuẩn ăn thịt người”) là bệnh nhiễm trùng cực kỳ nguy hiểm ở người và động vật do vi khuẩn gram âm Burkholderia pseudomallei gây ra. Năm 1913, một bác sĩ người Anh có tên là Alfred Whitmore đã mô tả lần đầu tiên về căn bệnh gây chết người này ở Rangoon, Myanmar, do đó, bệnh được đặt là Whitmore.
Các bác sĩ cho biết, người nhiễm Whitmore có tỷ lệ tử vong cao từ 40-60%, thậm chí có thể tử vong trong vòng 1 tuần kể từ khi phát bệnh. Cách suy nghĩ về bệnh “ăn thịt người” phải được hiểu đúng là do vi khuẩn có thể làm hoại tử và chết các mô trong cơ thể, ở da thì viêm loét hay áp xe, ở phổi thì gây viêm phổi, trong máu thì gây nhiễm trùng máu,… Đáng lo ngại nhất là việc chẩn đoán bệnh thường khó và dễ nhầm lẫn, diễn biến khó lường nên người dân thường chủ quan với bệnh.
Thời kỳ ủ bệnh của Whitmore từ 1 – 21 ngày (trung bình 9 ngày). Thời kỳ ủ bệnh ngắn nhất được ghi nhận là 1 ngày, trái lại thời kỳ ủ bệnh dài nhất đã ghi nhận được là 62 năm. Tuy nhiên, cũng có trường hợp người mắc bệnh không hề có triệu chứng nổi trội cho đến khi phát bệnh rõ rệt.
Vi khuẩn B. pseudomallei gây ra bệnh Whitmore được tìm thấy trong nước và đất. Do đó, con đường nhiễm bệnh thường là 3 trường hợp sau:
Tiếp xúc trực tiếp với nguồn đất có nhiễm khuẩn qua những vị trí da bị xây xước hoặc qua các vết thương do tai nạn (tai nạn lao động, tai nạn giao thông, chơi thể thao…)
Hít phải bụi, hơi nước có nhiễm khuẩn hoặc uống nước có nhiễm khuẩn Whitmore. Tại chỗ xâm nhập, chúng gây thành các mụn mủ to hoặc nhỏ tùy theo mức độ, đôi khi là một ổ áp xe lớn.
Vi khuẩn theo dòng máu đi đến khắp các cơ quan trong cơ thể, đặc biệt là gan, lách, phổi gây nên các ổ áp xe từ nhỏ đến lớn hoặc có thể liên kết với nhau. Nếu không phát hiện sớm và điều trị kịp thời, đúng, bệnh sẽ diễn tiến trầm trọng và dẫn đến biến chứng nặng nề.
Ngoài ra, bệnh có thể truyền từ mẹ sang con qua tuyến sữa khi người mẹ bị áp xe tuyến vú do vi khuẩn B. pseudomallei. Hoặc lây truyền qua việc tiếp xúc vết xước trầy da với động vật chết do nhiễm bệnh như: chó, mèo, bò, dê…