Chiều 6/2, tuyển nữ Việt Nam giành chiến thắng 2-1 trước Đài Loan (Trung Quốc) ở trận cuối cùng vòng play-off World Cup nữ 2023 nhờ hai pha lập công của Chương Thị Kiều và Bích Thùy.
Thầy trò HLV Đức Chung xếp trên Đài Loan (Trung Quốc) và Thái Lan, qua đó giành tấm vé trực tiếp dự sân chơi thế giới lần đầu tiên trong lịch sử.
HLV Mai Đức Chung chia sẻ trong niềm xúc động lớn lao: “Ngày 6/2/2022 sẽ là ngày có ý nghĩa đặc biệt với cá nhân tôi, với các học trò của tôi và của hàng triệu người hâm mộ Việt Nam. Chúng tôi đã làm được điều mà tất cả mọi người mong đợi là có vé đến đến World Cup 2023.
Chúng tôi đã có được trận thắng hết sức quý giá như đã hứa với người hâm mộ. Không thể diễn tả được sự vui mừng của tôi và mỗi thành viên trong đội. Tôi rất cảm ơn cầu thủ của mình. Sau trận, tôi cũng như vỡ òa, không thể kìm nổi cảm xúc. Tôi đã chạy ra sân để ăn mừng với các học trò. Đây là thành quả quá tuyệt vời. Nếu như không bị Covid-19, chúng tôi còn thi đấu tốt hơn. Phải đến gần cuối giải, chúng tôi mới thể hiện được hết năng lực của mình vì thể lực dần hồi phục”.
Khi biết tin tuyển nữ Việt Nam được nhận lời biểu dương, khen ngợi của Thủ tướng Phạm Minh Chính, HLV Mai Đức Chung và các cầu thủ đã rất xúc động trước sự quan tâm của người đứng đầu chính phủ
HLV Mai Đức Chung cho biết, chính sự quan tâm động viên từ Thủ tướng cùng sự cổ vũ của người hâm mộ nước nhà đã trở thành nguồn động lực lớn lao giúp các nữ cầu thủ lập được kỳ tích. Thủ tướng cũng sẽ kêu gọi xã hội hóa để để có nguồn tiền thưởng 4 tỉ đồng cho đội. Hiện tại, VFF thưởng cho đội 5,5 tỉ đồng. Một tập đoàn thưởng cho đội 3 tỉ đồng.
Theo kế hoạch, thầy trò HLV Mai Đức Chung sẽ về nước vào ngày 10/2 tới, khép lại gần 60 ngày xa nhà với thành quả ngọt ngào dành tặng người hâm mộ nhân dịp đầu xuân năm mới bằng tấm vé đi World Cup 2023.
Các cầu thủ nữ Việt Nam sẽ có khoảng thời gian gần 1 tháng về nhà cùng gia đình trước khi tái hội quân dự kiến vào tháng 3 tới để tiếp tục chuẩn bị cho nhiệm vụ quan trọng khác là bảo vệ thành công tấm huy chương vàng SEA Games 31.