Tết Nguyên đán Tân Sửu đang đến rất gần, mang theo không khí Tết rộn ràng ngập tràn khắp mọi miền Tổ quốc. Là dịp đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa đối với người dân Việt Nam nên mỗi đồng bào các dân tộc lại có phong tục độc đáo mang đậm bản sắc văn hóa để chào đón năm mới. Dù các phong tục có khác nhau nhưng tất cả đều hướng tới một điểm chung nhất là cầu mong năm mới được ấm no, hạnh phúc, gặp nhiều may mắn, mùa màng tươi tốt,…
Cùng khám phá những phong tục đón Tết cổ truyền độc đáo của các dân tộc Việt Nam:
Tết của dân tộc Kinh – Nét văn hóa đặc trưng của Việt Nam
Người Kinh chiếm 85,3% dân số Việt Nam, sinh sống và làm việc trải dài khắp các tỉnh trên cả nước. Tết của người Kinh được xem là nét đẹp văn hóa đặc trưng của cả dân tộc Việt Nam với nhiều phong tục truyền thống mang ý nghĩa sâu sắc.
Người dân bắt đầu cảm thấy không khí Tết đến gần khi đến ngày 23 tháng Chạp hàng năm. Đây là thời điểm nhà nhà sẽ dọn dẹp bếp sạch sẽ, mua cá vàng về cúng, tiễn ông Công và ông Táo về trời để báo cáo mọi việc trong nhà với Ngọc Hoàng.
Đặc biệt, Tết cổ truyền của người Kinh không thể thiếu bánh chưng. Các gia đình sẽ gói bánh sớm từ ngày 27,28 tháng Chạp. Không chỉ để thắp hương cúng ông bà và tổ tiên, bánh chưng còn được xem là món quà ý nghĩa để biếu họ hàng, bạn bè dịp Tết.
Trước Tết một vài ngày, các gia đình sẽ dọn dẹp nhà cửa, sắp xếp lại đồ đạc nhằm xóa bỏ những điều không tốt của năm cũ, đón chào một năm mới nhiều tài lộc và may mắn. Những chậu quất hay hoa đào cùng vài bao lì xì cũng được trang hoàng đẹp đẽ trong nhà, báo hiệu khoảnh khắc chuyển giao giữa năm mới và năm cũ đang đến gần.
Ngoài ra, người Kinh cũng thăm mộ tổ tiên, thể hiện sự kính trọng đối với đáng sinh thành, những người đã khuất.
Đến chiều 30 Tết, các gia đình sẽ làm cơm thắp hương mời thần linh và gia tiên về ăn Tết cùng gia đình. Vào thời khắc giao thừa, lễ cúng sẽ được thực hiện ngoài trời với ý nghĩa gạt bỏ những điều không may mắn của năm cũ, đón chào những tốt đẹp trong năm mới.
Sau giao thừa, người có tướng phú quý như hợp tuổi, gia đình hạnh phúc, làm ăn phát đạt,… sẽ được gia chủ mời xông đất.
Vào ngày đầu tiên của Tết Nguyên đán, con cháu sẽ đến chúc thọ và mừng tuổi ông bà, cha mẹ, trao nhau những lời chúc tốt lành. Các cháu bé được người lớn mừng tuổi để lấy may, cùng lời chúc hay ăn chóng lớn, ngoan ngoãn, học hành giỏi,…
Một trong những điểm đặc biệt trong Tết cổ truyền của người Kinh là đi chùa đầu năm để cầu xin một năm mới bình an, may mắn. Bên cạnh đó còn thể hiện tấm lòng thành kính với đức Phật và tổ tiên.
Tết của người Thái – Phong tục gọi hồn độc đáo
Dân tộc Thái có khoảng hơn 1 triệu người, phân bố chủ yếu ở Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Nghệ An. Cùng là Tết Nguyên đán nhưng người Thái lại có cách đón năm mới rất riêng: cả một mùa lễ hội kéo dài từ ngày 25 tháng Chạp đến mùng 10 tháng Giêng.
Đồng bào Thái thường cúng tổ tiên từ ngày 25 tháng Chạp đến mùng 5 tháng Giêng.
Theo phong tục, người Thái sẽ gói bánh chưng vào tối 29 Tết. Khác với bánh chưng thông thường, người Thái thường gói bánh chưng màu đen và màu trắng. Để làm bánh chưng đen, người Thái đốt rơm lên, lấy tro giã lẫn gạo nếp rồi sàng sạch muội tro mà vẫn giữ lại màu đen.
Vào đêm giao thừa, người Thái còn có tục “Pông Chay”. Theo đó, mọi người sẽ không ngủ mà quây quần bên bếp lửa, cùng nhau ăn uống và trò chuyện để trải nhau khoảnh khắc thiêng liêng đó. Trong nhà đèn luôn thắp sáng, nhang không được tàn. Đúng thời khắc giao thừa, đặt đồ cúng tại bàn thờ ma nhà, gia chủ khăn mũ chỉnh tề, kính cẩn đọc bài cúng “Chào đón tổ tiên xuống tề tựu”.
Vào dịp Tết, mâm cơm của mỗi gia đình phải có các món ăn như cơm mới, cơm đồ xôi, cơm cốm, cá chua, thịt hươu, măng khô, nai khô,…
Ngoài ra, nhắc đến phong tục ngày Tết của người Thái, không thể không nhắc đến phong tục gọi hồn. Phong tục này diễn ra vào tối ngày 29 và 30 Tết, mỗi gia đình đều thịt 2 con gà, 1 con để cúng tổ tiên và 1 con để gọi hồn những người trong nhà. Thầy cúng sẽ lấy của mỗi người trong gia đình 1 chiếc áo rồi bó lại một đầu với nhau vắt lên vai, tay cầm một cây củi đang cháy đem ra đầu làng gọi hồn, sau đó lại gọi một lần nữa ở chân cầu thang. Cuối cùng, thầy cúng buộc một sợi chỉ đen vào tay mỗi thành viên nhằm mục đích trừ tà, sợi chỉ đó phải đợi tự đứt, nếu tự ý dựt đứt thì chủ nhân dễ bị ốm đau.
Vào sáng mùng 1 Tết, các gia đình sẽ ra suối để lấy nước mát về mong may mắn cả năm. Và đến chiều, tất thảy già trẻ gái trai đều gội đầu để gột trôi hết mọi xui xẻo, vất vả của năm cũ, đón chờ những điều tốt đẹp sẽ đến trong năm mới.
Cũng như dân tộc Kinh, để năm mới được may mắn và suôn sẻ, người Thái kiêng cãi nhau vào mùng 1, không nói to, không quét nhà,…
Tết đặc sắc riêng biệt của người H’Mông
Người H’Mông có một hệ lịch riêng, vì vậy Tết của họ vào khoảng cuối tháng 11 đầu tháng 12 Âm lịch. Tuy nhiên, hiện nay, đa số đồng bào H’Mông đã ăn Tết cổ truyền như người Kinh, trừ một phần nhỏ người Mông ở Mộc Châu vẫn duy trì theo hệ lịch của họ.
Giống như người Kinh, khoảng 25, 26 tháng Chạp, mọi người bắt đầu nghỉ ngơi chuẩn bị đón Tết. Họ sẽ sửa sang và thay mới bàn thờ, làm bánh dày. Người H’Mông thờ 2 bếp chính, thắp hương liên tục trong 3 ngày để luôn giữ được ngọn lửa, giúp xua đuổi thú dữ và tà ma. Trong những ngày Tết cổ truyền, họ luôn thờ ma nhà và những vật dụng giúp họ sinh sống, làm ăn và phát triển.
Với người H’Mông, ba món không thể thiếu trong mâm cỗ ngày Tết là thịt, rượu và bánh ngô. Tuy nhiên, họ không đón giao thừa như người Kinh.
Theo đó, vào đêm 30 Tết, mỗi nhà đều phải làm lễ cúng "ma nhà" (tổ tiên) bằng một con lợn sống, một con gà còn sống (phải là gà trống tơ). Sau khi cúng xong, họ đem lợn và gà đi giết thịt, rồi cúng một mâm thịt chín. Xong xuôi hết mới được ăn và uống rượu đến lúc nghe thấy tiếng gà gáy đầu tiên. Đối với người dân tộc H’Mông, tiếng gà gáy sáng sớm đầu tiên của mùng 1 là thời khắc đánh dấu một năm mới bắt đầu.
Bên cạnh phong tục đón năm mới đặc biệt, người H’Mông còn có lễ hội Sải Sán hay Gầu Tào (hội cầu phúc) - lễ hội lớn nhất trong năm, thể hiện nét văn hóa đặc trưng không thể thiếu của người H’Mông. Lễ hội này thường diễn ra vào ngày mùng 2 của năm mới nhằm tạ ơn tổ tiên về mùa màng, súc vật, cầu cho con cháu đầy đàn.
Ngoài ra, lễ Sầu su được tổ chức vào ngày cuối cùng của tháng 12 Âm lịch cũng mang nét đặc sắc riêng biệt. Để chuẩn bị cho lễ Sầu su, từng dòng họ trong bản cử thanh niên trai tráng, phải chặt được một cây to cao mang về dựng ở cuối làng, nơi có đủ mặt bằng cho cả họ tập trung lại và đan cỏ tranh thành hai sợi dây dài trang trí vòng tròn trên cây.
Lễ Sầu su là dịp để các nam thanh nữ tú trong làng có cơ hội tìm hiểu nhau. Họ sẽ trưng diện những bộ đồ mới và trang sức đẹp nhất, tổ chức thành từng tốp chơi các trò chơi ném pao. Trò chơi này diễn ra trong 10 ngày liên tiếp, từ đó mà nhiều đôi trai gái đã nên duyên vợ chồng trong dịp Tết cổ truyền này.
Người H’Mông rất mến khách, họ quan niệm rằng nếu có khách lạ đến chơi vào dịp Tết thì cả năm đó sẽ gặp nhiều may mắn. Do đó, khách đến được đón tiếp rất chu đáo, mời họ ăn và uống rượu, ngủ lại nhà. Dân tộc H’Mông còn mừng tuổi 2 chiếc bánh dày họ làm trước khi khách ra về.
Tục lấy nước mới độc đáo dịp Tết của dân tộc Tày
Dân tộc Tày rất xem trọng ngày Tết cổ truyền. Từ những ngày 25 – 26 tháng Chạp, các gia đình đã nô nức chuẩn bị nguyên liệu để làm các loại bánh, dọn dẹp nhà cửa, vệ sinh bản làng sạch sẽ.
Ngày 27 – 28 tháng Chạp, họ bắt đầu thịt lợn để phục vụ ngày Tết.
Đến ngày 29, mọi người bắt đầu trang trí nhà cửa, cắm hoa, dán giấy quanh bàn thờ gia tiên, tranh thủ gói bánh chưng vào lúc chiều tối, chuẩn bị cho một năm mới đang đến gần.
Sang ngày 30 Tết, người Tày bắt đầu nấu bánh chưng, dọn dẹp bàn thờ, thay tro mới cho lọ hương bằng bông lúa nếp được sàng sảy kỹ càng.
Đến chiều tối, các gia đình bắt đầu làm cơm cúng tổ tiên, dâng lễ thắp hương, mời thổ thần về ăn Tết cùng. Sau khi hết tuần hương, các thành viên trong gia đình quây quần bên nhau ăn uống, trò chuyện vui vẻ.
Cũng giống như Tết của người Kinh, ngày đầu năm mới, con cháu chúc tết ông bà, cha mẹ nhiều sức khỏe; người lớn mừng tiền lì xì cùng lời chúc con cháu chăm ngoan, học giỏi.
Đặc biệt, sang ngày mùng 1, vào thời điểm 3h sáng trở đi, người Tày có phong tục lấy nước mới. Người Tày quan niệm rằng, nước đầu năm rất sạch, nhất là nước suối, nước nguồn, nước sông, ai lấy trước sẽ được nước sạch hơn. Do vậy, các thanh niên trong gia đình thi nhau chạy nhanh để lấy nước mới về nhà.
Bắt đầu từ mùng 2, bà con đi chúc Tết nhau, các chàng rể dẫn vợ con về thăm nhà ngoại, mang theo đồ lễ bánh trái và gà trống thiến béo để tỏ lòng thành với công lao dưỡng dục của cha mẹ.
Bên cạnh đó, trai gái trong làng cũng tổ chức chơi các trò chơi như đánh yến, đánh quay, cờ tướng, hát dân ca giao duyên,…
Ẩm thực đặc sắc dịp Tết của người Cơ Tu
Người Cơ Tu thường ăn Tết sau vụ thu hoạch, họ mở hội vui chơi trong ngày lễ cúng thần lúa gọi là Tết Progiêrâm – lễ lớn nhất trong năm.
Trước Tết 1 tuần, dân làng thường tổ chức đi bắt cá tập thể ở những con sông lớn, phụ nữ và trẻ em xúc cá bằng vợt ở những con suối nhỏ. Họ ngâm các loại trái, vỏ, rễ cây làm cho cá bị say và tự động nổi lên mặt nước. Cá thường được nướng, sau đó xông khô rồi bỏ vào ống nứa trên giàn bếp, chế biến như thịt khô.
Thực phẩm của người Cơ Tu trong ngày Tết chủ yếu là món ăn do người dân tự tay làm như nếp, lúa, sắn, ngô... Đặc biệt, rượu cần và rượu tà vạt là thứ không thể thiếu trong ngày Tết cổ truyền của dân tộc Cơ Tu.
Theo đó, người Cơ Tu bắt đầu đón Tết bằng việc ủ rượu cần, rượu cần ủ càng lâu vị càng nồng đượm, được nước và thơm ngon. Không những thế, người dân còn giã gạo, hái lá đót để gói bánh cuốt, họ dùng lá chuối rừng gói bánh hay dùng thay đĩa, bát khi chia phần thức ăn.
Ngoài việc ủ rượu, phụ nữ Cơ Tu còn lo giã nếp, hái lá đốt để làm bánh sừng trâu, nấu nhiều cơm lam để ăn và đãi khách. Ngoài ra, đồng bào Cơ Tu còn làm thêm món Za zá - món ăn được xem là đặc trưng của dân tộc.
Cụ thể, họ dùng các loại rau, măng, lá môn, chuối xanh, thịt rừng hoặc cá, ếch nhái... trộn lại với nhau rồi cho vào ống nứa tươi và đốt lửa bên ngoài. Đây là món ăn dùng nhắm với rượu tà vạt.
Bên cạnh việc chuẩn bị nhiều món ăn mang đậm bản sắc riêng, người Cơ Tu còn tổ chức các hoạt động văn hóa vui chơi như lễ hội đâm trâu, đánh cổng chiêng, nhảy điệu Za zá - điệu múa thiêng trong nghi lễ hiến sinh của người Cơ Tu, thể hiện sự vui mừng, lòng biết ơn đối với thần linh.
Vào đêm giao thừa, người Cơ Tu nấu cơm hoặc thịt gà, đồ xôi,… đưa lên đình để già làng, đại diện gia đình cúng xin thần linh ban cho một năm mới mùa màng tươi tốt, khỏe mạnh,… Khi cúng xong, người dân quây quần bên nhau, nâng rượu chúc phúc năm mới.
Đến ngày mùng 2 Tết, họ mới đi thăm từng nhà. Đồng bào dân tộc Cơ tu có lệ đi thăm nhà chị em gái hoặc con gái đã đi lấy chồng lâu ngày chưa gặp chứ không có tục con cái đã có vợ chồng về thăm cha mẹ. Tuy nhiên ngày nay, con gái đã lấy chồng ngày Tết cũng về thăm cha mẹ, mang theo thịt heo làm quà, không có nhiều thì một miếng để lấy tình.
Ngày mùng 3 Tết, họ cúng đưa Giàng và ông bà như người Kinh. Đến mùng 5 Tết, cả làng kéo nhau xuống khe suối, dùng vợt để xúc tôm cá với quan niệm cho mát mẻ đầu năm.
Ngoài ra, người Cơ Tu không bao giờ thiếu lệ cúng một ít muối trong các lễ phẩm ngày Tết, việc này nhằm nhắc nhở đồng bào một thời gian khó, xem hạt muối như máu trong người.