Người dân được bảo vệ như thế nào sau vụ cháy Rạng Đông?
Nhiều ngày qua, vụ cháy khủng khiếp tại Công ty Cổ phần Bóng đèn phích nước Rạng Đông, ở phường Thanh Xuân Trung, quận Thanh Xuân, Hà Nội thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận, bởi nguy cơ ô nhiễm thuỷ ngân và ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng.
Vụ cháy công ty Rạng Đông phát sinh nhiều vấn đề sự cố về môi trường độc hại, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người dân và môi trường trong khu dân cư, tác động xấu đến cộng đồng dân cư khi khoảng 15,1-27,2kg thủy ngân được cho là phát tán ra môi trường. Điều khiến dân chúng quan tâm đó là hậu vụ cháy phát sinh nhiều vấn đề sự cố về môi trường độc hại, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người dân và môi trường trong khu dân cư, tác động xấu đến cộng đồng dân cư.
Hàng nghìn người dân sống gần khu vực công ty Rạng Đông bị ảnh hưởng về tài sản và sức khỏe. Dư luận đặc biệt quan tâm quyền lợi của người dân sẽ được bảo vệ thế nào?
Trao đổi về vấn đề này, luật sư Trương Anh Tú (Chủ tịch TAT Law firm, Đoàn luật sư TP Hà Nội) cho hay, qui định tại Điều 43 Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”.
Theo luật sư Trương Anh Tú, quy định này đặt vấn đề quyền được sống trong môi trường trong lành trước khi thực hiện nghĩa vụ bảo vệ môi trường, tức là nhà nước phải có trách nhiệm tạo ra một môi trường sống trong lành cho người dân trước khi yêu cầu họ tham gia bảo vệ môi trường.
“Có thể thấy rằng, quyền môi trường là một quyền con người cơ bản, vừa là quyền cá nhân vừa là quyền của tập thể. Quyền về môi trường bao gồm quyền được sống trong môi trường trong lành, không bị ô nhiễm, quyền được tiếp cận với thông tin về môi trường và quyền được có tiêu chuẩn sức khỏe ở mức cao nhất có thể về môi trường sống, quyền được sử dụng các biện pháp để khắc phục, bồi thường trong những trường hợp quyền này bị vi phạm”, luật sư Tú nêu rõ.
Luật sư Tú cho hay, quyền năng này của người dân cũng có mối liên hệ mật thiết với các quyền con người cơ bản khác, nghĩa là không thể được thực hiện nếu tách rời các quyền khác bao gồm quyền sống (được quy định tại điều 19 của Hiến pháp 2013), quyền tiếp cận thông tin (Điều 25 Hiến pháp 2013), quyền về sức khỏe (Điều 20, 38 Hiến pháp 2013), quyền an sinh xã hội (Điều 34, Hiến pháp 2013)…
Luật bảo vệ tài nguyên môi trường năm 2014 là luật quan trọng nhất về bảo vệ môi trường, quy định về hoạt động bảo vệ môi trường; chính sách, biện pháp và nguồn lực để bảo vệ môi trường; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong bảo vệ môi trường. Các tiêu chuẩn môi trường, bảo vệ môi trường trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; bảo vệ môi trường biển, nước sông và các nguồn nước; quản lý chất thải, phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường, khắc phục ô nhiễm, phục hồi môi trường… và các quyền con người liên quan tới tiếp cận thông tin về môi trường như quyền khiếu nại, tố cáo, bồi thường thiệt hại về môi trường cũng đã được quy định.
Theo luật sư, người dân có quyền trong việc tiếp cận thông tin về vụ cháy và tham gia vào quá trình thực hiện của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Luật tiếp cận thông tin 2016 có hiệu lực từ ngày 1/7/2018 là một đạo luật có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc cụ thể hóa quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 - đó là “quyền được biết” của dân.
“Vừa qua, người dân hoàn toàn bị thụ động trong việc nắm thông tin. Một số người còn chưa nhận thức đầy đủ về sự tác động của các sự cố môi trường đến sức khỏe, tính mạng, tài sản của bản thân và cộng đồng dân cư. Việc các cấp có thẩm quyền có những kết luận khác nhau đánh giá về hậu quả của vụ cháy thể hiện sự lúng túng và thiếu kinh nghiệm, mặc dù trong luật bảo vệ môi trường đã qui định rõ ràng về trách nhiệm của chủ cơ sở sản xuất, cơ quan quản lý, các cấp chính quyền địa phương trong việc phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường, xác định thiệt hại và khắc phục sự cố.
Theo đó, khi xảy ra sự cố, cần phải thực hiện các biện pháp khẩn cấp để bảo đảm an toàn cho người và tài sản; tổ chức cứu người, tài sản và kịp thời thông báo cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường nơi xảy ra sự cố. Người đứng đầu cơ sở, địa phương có trách nhiệm huy động khẩn cấp nhân lực, vật lực và phương tiện để kịp thời ứng phó sự cố…”, luật sư Tú nhấn mạnh.
Công ty Rạng Đông chịu trách nhiệm như thế nào?
Luật sư Trương Anh Tú cho biết, luật bảo vệ môi trường quy định rất cụ thể, rõ ràng về trách nhiệm của chủ cơ sở sản xuất, cơ quan quản lý, các cấp chính quyền địa phương trong việc phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường, xác định thiệt hại và khắc phục sự cố.
Theo đó, người đứng đầu trực tiếp của tổ chức phải chịu trách nhiệm đối với hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường có liên quan đến hoạt động của tổ chức mình. Tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường có trách nhiệm khắc phục hậu quả và bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra; Trường hợp cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường do thực hiện nhiệm vụ được tổ chức giao thì tổ chức phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Hiện nay, cơ quan chức năng đang xác định nguyên nhân cháy nhưng khi xảy ra sự cố công ty có sử dụng hóa chất, thủy ngân trong sản xuất. Nhiều ý kiến cho rằng trong khi chờ kết quả phân tích chuyên môn thì chính quyền cần phải thiết lập vùng an toàn cho dân để đảm bảo sức khỏe cho người dân, luật sư Tú cho rằng, bề mặt pháp lý và thực tế cần phải làm như vì tất cả các kế hoạch phòng ngừa, ứng phó với sự cố cũng nhằm hướng tới mục tiêu bảo đảm sức khỏe, an toàn tính mạng của người dân là trên hết.
Nguyên tắc của phòng ngừa phải làm thừa hơn là thiếu, phải đưa ra được những quyết định kịp thời. Vì thế, các khuyến cáo đòi hỏi phải được đưa ra sớm, là “thời điểm vàng” để hạn chế tới mức thấp nhất những tác động sức khỏe của người dân quanh khu vực. Khi có đầy đủ các kết quả khoa học, xác định được các chỉ số ở ngưỡng an toàn với sức khỏe, khi đó hoàn toàn có thể thu hồi lại các khuyến cáo.
Trong trường hợp cơ quan điều tra xác định nguyên nhân hỏa hoạn không phải do yếu tố khách quan mà do lỗi của Nhà máy không thực hiện đúng các điều kiện an toàn về phòng cháy chữa cháy, chủ cơ sở hoàn toàn phải chịu trách nhiệm pháp lý về dân sự, hành chính và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Người dân có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại khi phải gánh chịu sự cố môi trường. Về trách nhiệm dân sự, Điều 602 Bộ luật dân sự 2015 có qui định “Chủ thể làm ô nhiễm môi trường mà gây thiệt hại thì phải bồi thường theo qui định của pháp luật, kể cả trường hợp chủ thể đó không có lỗi”.
Theo nguyên tắc của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, người dân trong khu vực có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tài sản… Nếu muốn được bồi thường, người dân sẽ phải thống kê thiệt hại theo Điều 590 Bộ luật dân sự 2015 thì thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm: “các chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại, nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại; Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị”.
Ngoài ra, người dân còn có thể yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần theo qui định. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần, vật chất (nếu có) do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá 50 lần mức lương cơ sở do nhà nước qui định.
Tuy nhiên, để có cơ sở đảm bảo cho việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì căn cứ pháp lý để yêu cầu bồi thường thiệt hại sức khỏe cũng như môi trường gồm: Một là, có thiệt hại xảy ra; hai là, hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật; ba là, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra; bốn là, bên gây ra thiệt hại có lỗi (tùy từng trường hợp và theo pháp luật). Trong trường hợp này nếu người dân không thỏa thuận được mức bồi thường thì có quyền khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bồi thường thiệt hại.