Chuyện tình đẹp của ông lão “nhặt” được vợ
Những ngày này, nước sông Hồng dâng cao, biến động của dòng nước khiến chiếc thuyền nhỏ của vợ chồng ông Nguyễn Văn Thành (84 tuổi) và bà Nguyễn Thị Thủy (83 tuổi) dựng tạm trên sông Hồng, đoạn dưới chân cầu Long Biên (Hà Nội) luôn chòng chành, lắc lư.
Những lúc như vậy bà Thuỷ chỉ biết ngồi im một chỗ, ông Thành vội lặn xuống nước nhổ neo, buộc lại phao kiên cố. Suốt hơn 50 năm qua, ông bà tá túc tại đây cùng trải qua bao thăng trăm của cuộc sống cho tới phút cuối đời.
Thấy khách ghé vào, bà Thuỷ nghe tiếng liền hô to "ông ơi, ông ơi", đến lần thứ 3 ông Thành mới bật dậy. Bà Thuỷ cất tiếng chào hỏi, cười tươi bởi hằng ngày thi thoảng vẫn có người ghé lên thuyền thăm ông bà.
"Ông nhà tôi bị điếc nên có khi phải hét tận ở huyện Gia Lâm còn nghe thì may ra ông ấy mới nghe được. Tôi mù loà hơn 2 năm nay nên không nhìn thấy gì. Lâu lắm rồi tôi cũng chỉ ở trong phòng không dám bước ra khỏi thuyền", bà Thuỷ chia sẻ.
Dù điếc nặng nhưng khi kể về chuyện tình đầy bi hài của hai vợ chồng, ông Thành vô cùng hào hứng. Vốn quê ở huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa nhưng từ khi hơn 10 tuổi, ông Thành đã phải chịu cảnh mồ côi khi cha mẹ mắc bạo bệnh qua đời. Không anh em, họ hàng thân thích, cậu bé Thành khi ấy sống lang thang khắp các ngả đường, xó chợ, từ đi ăn xin, đến rửa bát đũa, làm thuê… để nuôi sống bản thân.
Năm 16 tuổi, chàng thiếu niên Thành bơ vơ tìm đường ra Hà Nội rồi được một phụ nữ không con cái nhận làm con nuôi nhưng được vài năm sau. người này bệnh tật qua đời. Ông Thành lại sống trong cảnh không người thân, ai thuê gì làm nấy, đi khắp phố phường Hà Nội kiếm sống.
Một mình sống cô đơn, tình cờ ông Thành gặp rồi nên duyên cùng bà Thủy (quê ở Thái Bình), người con gái cùng cảnh ngộ như mình, không họ hàng thân thích. Ông vẫn nhớ như in ngày mình “nhặt” được vợ.
Ông nhớ lần đầu tiên tình cờ gặp bà Thuỷ, đó là ngày 26 tháng 9 năm 1969. Thời điểm ấy, ông đang đi lang thang ở ga Hà Nội thì thấy bà Thuỷ nhặt những hạt gạo người ta đánh rơi ở sau ga cho vào ống bơ để nấu.
"Tôi liền lại hỏi han rồi nghe bà ấy chia sẻ hoàn cảnh không người thân thích, sống lang thang ở Hà Nội. Lúc đó, tim tôi bồi hồi đến lạ. Trái tim như mách bảo tôi mạnh dạn thổ lộ: Cô về ở với tôi đi, rồi cùng nhau mò cua bắt ốc sống qua ngày. Tôi khắc chữ trên tay ngày gặp bà ấy coi như minh chứng của cuộc đời”, ông Thành cười.
Sau ít phút bối rối, ông Thành vui mừng khi nhận được cái gật đầu của người con gái khổ cực cùng cảnh ngộ. Chính vì sự chân thành, mộc mạc của ông Thành đã phần nào chạm đến trái tim của bà Thuỷ. Cả hai dắt nhau về thổi lửa nấu cơm chung bất kể đói khổ.
Về ở chung với nhau được một thời gian trong cảnh đói khổ, bom đạn bắn phá miền Bắc dữ dội nên hai ông bà kéo nhau lên Lào Cai – Yên Bái dựng lều ở và sống bằng nghề hái măng rừng, đốn củi bán lấy tiền đong gạo.
Khi hòa bình lập lại, ông bà bàn nhau về Hà Nội. Rồi cứ thế, hai vợ chồng lang thang đi khắp phố phường nhặt phế liệu, lấy ống bơ cho gạo vào nấu cơm ăn.
"Tối thì ngủ vỉa hè. Tuy nghèo khổ nhưng lúc nào chúng tôi cũng vui vì được quan tâm, chia sẻ với nhau. Chúng tôi yêu thương thấu hiểu nhau nên khó khăn đến mấy cũng không cãi nhau bao giờ”, ông kể.
Chỉ vào chiếc thuyền bé dựng tạm bợ trên sông Hồng, ông Thành cho hay, thấy cuộc sống của vợ chồng ông lang thang, lúc thì dựng lều ở dưới gầm cầu, lúc ở tạm dưới bãi sông nên nhiều người thương tình góp tiền mua cho cái thuyền này để ở những lúc mưa gió.
"Chúng tôi luôn vì nhau, hạnh phúc bên nhau"
Chiếc thuyền nhỏ là nơi ông bà sinh sống suốt nhiều năm qua. Hằng ngày, để có tiền trang trải cuộc sống, cứ chiều đến, ông Thành lại đạp xe đi khắp phố phường nhặt sắt vụn đến mờ sáng hôm sau mới về bán lấy tiền đong gạo, mua ít thịt mỡ và chai nước mắm.
Mỗi ngày như vậy, ông kiếm được vài chục nghìn đồng, đủ để ông bà chi tiêu tằn tiện, sống qua ngày. Bị bệnh thấp khớp nên nhiều năm qua, bà Thủy chỉ quanh quẩn ở nhà trồng vài luống rau ăn. Trải qua hơn 50 năm chung sống nhưng ông bà không có mụn con.
"Nhiều lúc nghĩ buồn tủi nhưng không biết làm thế nào. Số phận ông trời cho mình đến với nhau hạnh phúc rồi", ông trải lòng.
Cách đây vài năm, bà Thuỷ thấy mắt mình mờ dần nhưng không có tiền chữa trị. Đến khi có người đưa đi bệnh viện thì đôi mắt đã mù loà không thể cứu chữa.
"Hai năm nay tôi mù hẳn, nghĩ cũng buồn lắm vì chẳng thể đi lại. Trước kia mắt lành lặn còn phụ ông ấy cơm nước, trồng luống rau ăn, giờ ngồi một chỗ. Tối ông đi nhặt rác sợ tôi không may ra ngoài trượt ngã xuống sông liền khoá cửa lại. Ông nhặt phế liệu đến gần sáng thì trở về nhà", bà Thuỷ kể.
Ngồi bên cạnh vợ, ông Thành cười hạnh phúc bảo: "Cuộc sống về già của chúng tôi chẳng có gì rồi cũng về với cát bụi. Thế nhưng chúng tôi luôn vì nhau, hạnh phúc bên nhau. Tôi là ánh sáng của bà, bà là nơi lắng nghe tâm sự của tôi. Còn khoẻ mạnh ngày nào chúng tôi còn chăm lo cho nhau ngày đó".
Ông Thành vui vẻ đọc cho vợ nghe những dòng thơ giản đơn mình vừa sáng tác. Nghe xong bà Thuỷ cười vui vẻ. Bà hiểu rằng dù mất đi đôi mắt, cuộc sống trôi nổi dưới mái thuyền bao năm qua khổ sở. Tuy nhiên, bà hạnh phúc, vui vẻ vì có ông - người chồng hiền lành, thấu hiểu, tâm lý luôn bên cạnh...
"Dập dìu sông nước đầy vơi
Ngồi ra cửa sổ thảnh thơi uống trà
Đơn sơ nhưng cũng là nhà
Nương thân cuộc sống để mà mưu sinh
Miễn sao có nghĩa có tình
Trời cho khoẻ mạnh là vinh lắm rồi
Giàu nghèo là lộc của trời
Cho ai người được ước thời bằng không"...
"Vợ mù chồng điếc buồn thay
Miễn sao hạnh phúc hằng ngày ấm êm
Không vì nghèo khổ gây nên bất bình".