Mới đây, dư luận xôn xao trước câu chuyện nữ khách hàng V.L.L. (ngụ tại Bà Rịa - Vũng Tàu) đi xe ôm công nghệ với số tiền cước là 71 nghìn đồng nhưng lại chuyển nhầm thành 71 triệu đồng.
Sự việc xảy ra vào chiều 15/3, chị L. đặt GrabBike từ chung cư Gateway, phường 10 (TP Vũng Tàu) về TP Bà Rịa. Tới nơi, chị L. thanh toán số tiền 71.000 đồng cho tài xế. Tuy nhiên, khi vào nhà và kiểm tra lại, chị tá hỏa phát hiện mình đã chuyển nhầm cho tài xế số tiền 71 triệu đồng.
Chị L. sau đó đã cố gắng liên hệ lại với tài xế nhưng không thành công. Được biết, tài xế xe công nghệ trong vụ việc là anh N.T.Q. quê ở Đồng Nai.
Mâu thuẫn trong việc giải quyết vụ chuyển nhầm tiền
Chiều 19/3, chị L. và anh Q. đã đến Công an phường 2, TP. Vũng Tàu để giải quyết vụ việc. Tuy nhiên, hai bên không đạt được thỏa thuận chung.
Anh Q. cho rằng việc chị L. đăng tải thông tin cá nhân của mình lên mạng xã hội đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến gia đình. Vì vậy, anh yêu cầu chị L. phải công khai xin lỗi trên mạng và bồi thường tổn thất tinh thần thì mới chịu hoàn trả số tiền đã nhận nhầm.

Trả lời phỏng vấn với báo Dân Trí, chị L. khẳng định rằng hành động của mình không sai. Chị cho biết mình chỉ muốn tìm cách liên hệ với tài xế để lấy lại số tiền. Trước đó, chị L. đã thử gửi thêm nhiều khoản tiền nhỏ cho tài xế để kiểm tra nhưng anh Q. nói rằng không nhận được.
Tài xế bị khóa tài khoản, hãng xe sẵn sàng phối hợp với cơ quan chức năng
Sau khi vụ việc xảy ra, anh Q. đã bị hãng xe khóa tài khoản. Phía hãng xe cũng khẳng định sẵn sàng cung cấp thông tin khi có yêu cầu từ cơ quan chức năng để hỗ trợ điều tra và giải quyết vụ việc.
Luật sư Trương Văn Tuấn (Văn phòng luật sư Trạng Sài Gòn, Đoàn Luật sư TP.HCM) chia sẻ với Dân Trí, nếu cơ quan chức năng xác minh được rằng tài xế Q. biết chị L. chuyển nhầm số tiền 70.929.000 đồng nhưng không liên lạc để trả lại hoặc không giao nộp cho cơ quan có thẩm quyền, thì có dấu hiệu phạm tội Chiếm giữ trái phép tài sản.

Theo Điều 176 Bộ luật Hình sự năm 2015, người nào cố tình không trả lại tài sản trị giá từ 10 triệu đến dưới 200 triệu đồng cho chủ sở hữu hoặc không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm thì có thể bị phạt tiền từ 10 đến 50 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm. Nếu tài sản bị chiếm giữ có giá trị từ 200 triệu đồng trở lên hoặc thuộc loại bảo vật quốc gia, mức phạt tù có thể từ 1 đến 5 năm.
Trong trường hợp không đủ yếu tố cấu thành tội phạm, người vi phạm có thể bị xử phạt hành chính theo quy định tại điểm đ, khoản 2, Điều 15, Nghị định 144/2021/NĐ-CP. Mức phạt hành chính cho hành vi chiếm giữ tài sản của người khác có thể từ 3 đến 5 triệu đồng.