Đến với di sản văn hóa thế giới phố cổ Hội An, hẳn không ít người đã từng một lần ghé thăm một làng gốm nhỏ ven sông Thu Bồn, nơi cách đây hơn nửa thiên niên niên kỷ là một trung tâm sản xuất, buôn bán đồ gốm đất nung có tiếng, cung cấp sản phẩm cho các tỉnh miền Trung. Trải qua thăng trầm của lịch sử, đến nay làng gốm Thanh Hà (Hội An) - một làng nghề lâu đời, có tính chuyên môn cao - vẫn bảo tồn được nguyên vẹn những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể truyền thống, đặc biệt là những tri thức dân gian về nghề.
Làng gốm Thanh Hà có lịch sử hình thành lâu đời. Tương truyền vào khoảng thế kỉ 16,17, những thợ thủ công từ Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh đã đến Thanh Hà lập làng và xây dựng nên nghề làm gốm, truyền lại cho đến ngày nay. Gốm Thanh Hà không chỉ được người dân Quảng Nam và miền Trung nói riêng biết đến mà có giai đoạn được xuất khẩu sang nước ngoài.
Từ thế kỷ 16 - 17, do việc xây dựng các kiến trúc dân dụng ở đô thị cổ Hội An phát triển nhanh, kéo theo nhu cầu về gạch ngói và vật liệu xây dựng đất nung tăng cao. Đây là giai đoạn phát triển thịnh đạt nhất của làng nghề gốm Thanh Hà. Gạch ngói và các vật dụng đất nung từ các lò gốm Thanh Hà trở thành mặt hàng được các lái buôn theo đường sông đưa đến khắp các tỉnh miền Trung. Cho đến nay, gốm Thanh Hà vẫn được làm hoàn toàn bằng tay theo phương thức thủ công truyền thống. Thanh Hà sản xuất chủ yếu đồ gốm đất nung (không tráng men), màu gốm đỏ tươi, xương gốm mịn, độ nung không cao lắm.
Quy trình sản xuất ra một sản phẩm qua nhiều bước: làm đất, tạo hình bằng bàn xoay, sửa nguội, phơi, nung.
Theo kinh nghiệm dân gian thì đất sét vàng được chọn để làm gốm là loại đất có độ dẻo, kết dính, không lẫn tạp chất. Đây là ba yếu tố quan trọng góp phần cho việc tạo hình phôi gốm được mềm mại, đẹp mắt. Loại đất này sẽ cho ra sản phẩm gốm có độ chịu lực tốt, màu sắc áo gốm đỏ/hồng, mịn màng, tươi sáng. Muốn biết độ dẻo của đất, người thợ ngắt một mẩu đất sét, dùng tay se thành sợi dài (con trạch đất) rồi bẻ cong, gấp hai đầu con trạch đất lại với nhau, nếu con trạch đất không bị nứt, gãy là đất sét dẻo.
Khi đất đã được luyện kĩ thì khối đất lớn được chia thành từng phần nhỏ để se thành các con trạch đất. Người thợ chuốt gốm ngắt một lượng đất đủ dùng để tạo phôi một sản phẩm gốm từ con trạch đất đã se sẵn. Trước khi tạo dáng phôi gốm phải chuốt phôi. Thường khi chuốt gốm phải có hai người (phụ nữ), một người đứng, hai tay se con trạch đất để chuẩn bị nguyên liệu cho các sản phẩm kế tiếp, một chân đứng trụ, chân kia đạp bàn xoay, người còn lại lấy con trạch đất đặt lên bàn xoay, cuộn dải đất thành hình trụ tròn rồi dùng tay kết hợp con sò (dụng cụ chuốt gốm), giẻ lau ướt tạo dáng sản phẩm.
Một sản phẩm gốm nung đạt chuẩn phải được nung trong lò suốt 24 tiếng đồng hồ với cường độ lửa chính xác để gốm lên màu đều và đẹp. Người thợ phải liên tục thêm củi để giữ lửa cho lò nung. Nếu quên thêm củi, lửa không đúng thì gốm không thể đạt được màu đỏ gạch nung đúng chuẩn.
Như vậy, từ nguyên liệu đất sét được mua từ Điện Bàn đến một chiếc bình, chiếc chum được đưa ra từ lò nung là một quá trình công phu, cẩn thận. Qua đôi tay khéo léo, lành nghệ của người thợ, những đường cong mềm mại, họa tiết nổi bật trở nên có hồn, sống động vô cùng. Những con trâu, con gà, con heo như những sinh vật có linh hồn và sự sống.Người nghệ nhân làm gốm không chỉ nặn đất, chuốt gốm mà còn gửi trọn tình yêu nghề và cả tâm hồn của mình vào tác phẩm. Hay nói cách khác, họ là người “thổi hồn” vào những nắm đất tưởng như vô tri, vô giác kia.